CHƢƠNG 3: SO SÁNH VỀ NGHỆ THUẬT GIỮA TRUYỆN TRẠNG QUỲNH VỚI TRUYỆN TRẠNG LỢN
3.2 Sự khác nhau về nghệ thuật giữa truyện Trạng Quỳnh và truyện Trạng Lợn
truyện Trạng Lợn
3.2.1 Yếu tố tục trong truyện Trạng Quỳnh
Một sự khác biệt dƣờng nhƣ khá rõ ràng trong hệ thống truyện Trạng Quỳnh khi đối sánh với truyện Trạng Lợn là Truyện Trạng Quỳnh sử dụng yếu tố tục một cách đậm đặc, trong khi truyện Trạng Lợn lại không sử dụng yếu tố này.
Ví dụ nhƣ truyện “Đá bèo” trong chuỗi truyện Trạng Quỳnh: “Một bà
Chúa nhan sắc mặn mà nhưng tính kiêu ngạo, hễ đi ra chơi phố phường thấy ai trái ý là sai lính bắt liền. Một lần, Quỳnh lững thững đi chơi, gặp kiệu
Chúa. Gần đấy có cái ao bèo, Quỳnh vội vàng chạy xuống cầu ao đá nước chơi.
Chúa biết Quỳnh, thấy chơi lẩn thẩn như thế mới hỏi: – Ông làm gì đó?
Quỳnh ngẩn lên thưa:
– Tôi ở nhà buồn quá, ra “đá bèo” chơi!
Bà Chúa đỏ mặt tía tai, tức lắm nhưng chẳng dám nói gì”
Bằng thủ pháp chơi chữ “đá bèo”, trạng đã hạ bệ đối phƣơng, giành thế thắng cho mình, khiến đối phƣơng “đỏ mặt tía tai, tức lắm nhưng chẳng dám nói gì” khi hiểu ra ý nghĩa có phần tục trong từ trạng dùng.
Tiếp tục lấy ví dụ trong truyện “Bà Đanh mất thiêng”: “Tương truyền
gần làng Trạng Quỳnh đang ngồi dạy học có một ngôi miếu thiêng, ngoài cửa miếu có pho tượng một người đàn bà dáng điệu hớ hênh, miệng cười chúm chím, tay chỉ xuống “cái ấy”, được phô bày trọn vẹn, gọi là tượng Bà Đanh. Pho tượng kỳ cục vậy nhưng linh lắm, ai đi qua trông thấy, nhếch mép cười thì không xếch mồm cũng méo miệng. Đồn rằng đó là chỗ người Tàu giấu của, thiêng lắm. Quỳnh nghe đồn, đi xem. Đến nơi thấy tượng trần truồng mà chân lại đi giày, cổ đeo hạt. Quỳnh không cười không nói, cầm bút đề ngay vào ngực tượng một bài thơ nôm rằng:
Khen ai đẽo đá tạc nên thầy! Khéo đứng ru mà đứng mãi đây?
Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt. Dưới chân đứng chéo một đôi giày, Ấy đã phất cờ trêu ghẹo tiểu,
Hay là bốc gạo thử thanh thầy? Có ngứa gần đây nhiều gốc dứa, Phô phang chi ở đám quân này.
Quỳnh đề thơ xong, bỏ đi. Tượng đá bỗng toát mồ hôi ra từ đó mất thiêng”[1, tr.250]
Với bài thơ trạng đề, yếu tố tục đã khiến cho “tƣợng đá” cũng phải “toát mồ hôi” trƣớc sự cả gan của trạng.
Trong mẩu chuyện sau, Trạng Quỳnh một lần nữa sử dụng yếu tố tục để trêu trọc tên quan. Có lẽ, không phải ai cũng dám liều nhƣ vậy: “Giai thoại
này kể về lúc Quỳnh chưa ra làm quan. Trên đường từ huyện về Kẻ Nghì, quỳnh gặp một cô gái từ Kẻ Nghì lên huyện. Đường đi phải qua một quãng đường đồng lầy lội. Hỏi chuyện Quỳnh biết cô gái lên huyện để đưa đơn trình quan về việc con bò bị chết, xin được đem chôn. Quỳnh hỏi mượn đơn xem, rồi giả vờ lở tay đánh rơi đơn xuống bùn. Cô gái Kẻ Nghì bắt đền, Quỳnh làm ngay đơn khác để cô trình quan. Lá đơn ấy, Quỳnh viết:
Tôi là con gái Kẻ Nghì
Tôi phải mượn người làm cái đơn ni Đem vào trình với chú Tri
Mong chú chấp lấy đơn ni làm bằng Nếu mà chú nói mần răng
Thì chú bú c… Cho thằng mần đơn.
Cô gái đến cửa quan thì nộp đơn, hầu chờ phán xét. Đọc xong, mặt tím bầm, quan quát:
– Thằng nào viết này cho mày? – Bẩm quan một người đi đường ạ! – Sao lại một người đi đường?
Bẩm quan người ấy biết con làm đơn trình quan về việc bò chết, người ấy mượn đọc, không may lỡ tay, làm rơi lá đơn của con xuống nước, người ấy sợ quan quở, phải viết lại lá đơn này cho con đến trình quan.
– Hình dạng người ấy ra sao?
– Dạ, bẩm quan, người to bụng hơi phệ, mặc áo năm thân, quần lá làn, và…
– Và cái mả cha mày à, lần sau đơn có rơi cũng không để cho người ấy viết lại nữa nghe không?
Truyện “Đá gà với quan thị”: “Bọn quan thị, nơi phủ chúa “Gà” thật
không có mà lại cứ hay đá gà. Chúng bỏ ra nhiều tiền, lùng cho được những con gà hay đem về nuôi rồi đem ra đá độ với nhau. Nghe nói Quỳnh chọi gà với sứ Tàu thắng, họ liền mang gà đến nhà Quỳnh, đá thử một vài cựa chơi. Quỳnh vốn ghét bọn quan thị, từ chối nói là không có gà, nhưng họ nhiễu mãi, phải ừ và hẹn đến mai đi bắt gà về chọi. Bên láng giềng có một con gà trống thiến, Quỳnh liền qua mượn mang về.
Sáng sớm, mở mắt dậy, đã thấy quan thị đem gà lại rồi. Quỳnh sai bắt gà trống thiến đem ra chọi. Tất nhiên, vừa so cựa được một vài nước, thì gà quan thị đá cho gà trống thiến một cựa lăn cổ ra chết ngay còn gà bọn hoạn quan thì vỗ cánh phành phạch lấy uy, gáy vang cả sân nhà. Bọn chúng khoái chí vỗ tay reo:
– Thế mà đồn rằng gà của Trạng hay, chọi được gà Tàu, giờ mới biết đồn láo cả!
Quỳnh chẳng cãi lại, chỉ ôm gà trống thiến mà rằng:
– Các ngài nói phải, trước con gà này đá hay lắm, nhưng từ khi tôi thiến nó đi, thì nó đốn đời ra thế!
Rồi ôm gà mà than thở: “Khốn nạn thân mầy, gà ôi! Tao đã bảo phận mày không dái thì chịu trước đi cho thoát đời, lại còn ngứa nghề là gì cho đến nỗi thế này! Thôi mày chết cũng đáng đời, còn ai thường nữa, gà ôi!”.
Các quan thị nghe thế, xấu hổ, ôm gà cút thẳng”.
ngƣời dân vốn chịu nhiều ức hiếp của lũ quan thái giám triều đình. Câu nói đá xoáy của trạng: “- Các ngài nói phải, trước con gà này đá hay lắm, nhưng từ
khi tôi thiến nó đi, thì nó đốn đời ra thế!” không chỉ giúp trạng chuyển tình thế từ bại thành thắng cho trạng, mà còn là một tiếng chửi sâu cay, là đòn chí mạng đối với những tên quan hoạn vốn “coi trời bằng vung” ấy.
Sự sâu cay trong lối sử dụng câu chữ mang đậm yếu tố tục của Trạng Quỳnh cũng đƣợc thấy rõ trong truyện “Thay lời giáo thụ gửi cho vợ” : “Quỳnh có một người bạn cùng làng làm giáo thụ ở một tỉnh nọ xa nhà. Một
bữa, nhân có người cùng huyện về quê, giáo thụ mới viết thơ nhờ ghé qua nhà đưa cho vợ. Trên đường về làng, bác này gặp Quỳnh, biết Quỳnh người cùng làng với giáo thụ, liền nhờ Quỳnh đưa giúp bức thơ cho vợ ông.
Quỳnh nhận lời rồi trao vào bức thơ lỡm vợ ông giáo thụ như sau: Nay lời giáo thụ gửi về quê
Nhắn nhủ cô bay chớ ngứa nghề Cõi bắc anh mang thằng cù lẳng Miền nam em giữ cái trai he. Hãy còn vương vít như hang thỏ Hay đã tò ho quá lỗ trê?
Bấm đít, bấm chôn mà chịu vậy
3.2.2 Yếu tố ngẫu nhiên trong truyện Trạng Lợn
Truyện Trạng Lợn sử dụng phổ biến yếu tố ngẫu nhiên. Chính yếu tố ngẫu nhiên đã giúp Trạng Lợn luôn gặp vận may để nhiều lần thoát đƣợc những tình thế nguy kịch và giúp Trạng Lợn lập công trạng. Ví dụ nhƣ truyện sau cho thấy Trạng Lợn luôn gặp may và việc lập công của Trạng luôn là sự tình cờ, ngẫu nhiên chứ tuyệt nhiên không phải do tài trí mà lập nên công trạng: “Đến một làng khác, thấy có một các bảng đề hai chữ “hạ mã”, trạng
đọc lầm là bất yên (vì chữ nho hai chữ hạ mã và bất yên gần giống nhau) trạng nói:
– Làng này bất yên.
Hai ông bạn tủm tỉm cười, không cải chính, và cũng chiều ý trạng không vào làng ấy. Thì vừa đi qua làng một lát, cả ba nghe thấy tiếng kêu la ầm ỹ, thì ra là đám cháy, cháy một lát một nửa làng ra tro.”
Hoặc ở truyện “Thâm tinh huyền lý” đã dẫn ở trên, sự tinh quái của trạng khi viết “Thâm tinh lập lái” nhƣng vì dốt, Trạng lại viết thành “Thâm
tinh huyền lý”. Khiến “Nhà sư đọc xong bốn chữ thấy nét không đẹp nhưng ý vị xâu xa, đập tay vào đùi bôm bốp thán phục trạng hết lời.
– Tuyệt tác ! Tuyệt tác ! “Thâm tinh huyền lý” tức là tình xâu xa, lẽ nhiệm mầu, hay quá ! Thật hợp cảnh nhà chùa.
Có biết đâu rằng chính ra trạng định viết bốn chữ “thâm tinh lập lái” tức là tiếng lóng của bọn lái lợn, có nghĩa là ba quan và mười hai quan”.
dinh xem một quẻ. Thằng kẻ trộm thấy quan cho người ra xem bói lo lắm, bèn lẻn vào nhà trạng, đứng nghe trộm. Nguyên trạng thấy ông thượng thư cho người đến bói, lấy làm lo lắm, cả đêm trằn trọc suy nghĩ không ngủ được. Gần sáng trạng lấy quyển Tam Tự Kinh ra đọc đến câu “Mã ngửa ngực đương thử lực sức, nhân sở tự” thì đọc to lên.
Tên kẻ trộm tên là Tự, đứng nghe lỏm, thấy thầy đọc trúng tên mình, vội bò ra cắn rơm cắn cỏ lạy thầy đừng nói tên mình với quan thượng thư.
Trạng hét lên:
– Ừ, mày lấy cắp ngựa ngày nào và để đâu. Phải nói ngay thì tao tha tính mạng cho, không hô danh nữa.
Hôm sau, vào dinh quan thượng thư, Trạng reo quẻ suýt xoa khấn vái rồi cứ lời tên trộm kể lại vanh vạch. quan thượng thư cho người đến nơi, quả thấy ngựa quý thưởng cho rất nhiều vàng bạc. Từ đó, trạng nổi tiếng như cồn, ai ai cũng phục trạng là trạng bói”.
Hoặc cũng nhờ ngẫu nhiên mà Trạng Lợn có đƣợc ngƣời vợ tài giỏi xinh đẹp: “Vào phòng riêng để nghỉ, Trạng bỗng thấy ở trên tường có một
bức hoa. tiên ghi mấy chữ như sau: “Bát đao phân mê phấn”, nghĩa là chữ Bát, chữ Đao, chữ Phấn, chữ Mê, bốn chữ ấy chấp lại thành chữ Phấn. Bùi tiểu thư viết mấy chữ ấy là có ý đố ai đối được thì sẽ lấy làm chồng.
Vốn mù chữ, trong năm chữ ấy Trạng chỉ biết có chữ “Phấn” đoán là tên của tiểu thư; sẵn trên ấn có bút nghiên cũng vạch tên mình là “Chung” vào. Viết xong, nằm quèo ra ngủ. Đến sáng, Phấn tiểu thư thấy chữ “Chung” tán ra câu đối là “Thiên lý trong kim chung”, nghĩa là chữ Thiên, chữ Lý, chữ Kim chắp lại thành chữ Chung. Nàng nức nở khen hay và cho rằng chỉ có
người này mới xứng đáng là chồng nàng. Bèn bày lễ ra giữa trời cảm tạ trời đất đã run rủi cho nàng được người chồng xứng đáng. Đoạn nàng và trạng cùng làm lễ thề nguyền, lấy trời đất chứng từ cho mối duyên lành hiếm thấy. Bùi tướng Công mừng rỡ sai đặt tiệc ở Thủy Đình trên hồ Bán Nguyệt ăn mừng và đưa một mâm vàng cho Trạng để làm tiền lộ phí. Khi từ biệt. Phấn tiểu thư đưa cho chàng một phong thự Đi được một quãng đường dở đọc thì là một bài thơ tứ tuyệt:
Bán nguyệt chi trung tương hội sứ, Uyên ương đình nội bá bôi thi. Nguyên quãn kiên sấn thanh vân lộ, Tảo tháp hồi lai đan quế nhi.
Tạm dịch là:
Gặp nhau bán nguyệt hồ này,
Uyên ương đình nọ cùng nhau tạc thù. Mong chàng sớm chảy đường cũ, Bẻ cành đan quế cho phụ tấm lòng.”
Nếu nhƣ ở truyện Trạng Quỳnh, trƣớc mỗi tình huống có vấn đề, Trạng Quỳnh dùng bản lĩnh, tài năng, mƣu trí của mình để giành phần thắng, để hạ bệ đối phƣơng, hoặc để thoát khỏi mối nguy hiểm cho bản thân, hoặc để đem
khi tình huống có vấn đề đƣợc đặt ra, tình tiết lên đến đỉnh điểm, tạo nên nút thắt cho câu chuyện, trạng bị đẩy vào thế bí, thì đột nhiên, một yếu tố ngẫu nhiên xảy đến. Và yếu tố ngẫu nhiên ấy bao giờ cũng có lợi cho Trạng Lợn, bao giờ cũng đúng lúc, phù hợp để giải quyết, tháo gỡ vấn đề, cởi nút cho câu chuyện. Thêm vào đó, nếu nhƣ ở truyện Trạng Quỳnh, những tình huống có vấn đề đa số đều do trạng tự tạo nên, trạng chủ động trong mọi tình thế, thì, ở truyện Trạng Lợn, trong đa phần các mẩu chuyện, ông trạng này ở vào thế bị động, ngây ngô đến hồn nhiên, vô tƣ (một số mẩu chuyện khác có sự khác biệt nhƣ “Thử gỗ”, “Chơi cờ với sứ Tàu”…). Chỉ đến khi gặp phải khả năng nguy hiểm, trạng mới biết đang rơi vào tình huống có vấn đề. Và trong tất cả những tình thế đó, yếu tố ngẫu nhiên là cứu cánh giúp trạng giành phần thắng hay đơn giản là làm cho nút thắt truyện đƣợc tháo gỡ. Nếu đi vào xem xét mô hình kết cấu của các mẩu truyện Trạng Lợn, ta thấy có những nét khác biệt với mô hình kết cấu thƣờng thấy ở các truyện trạng. Kiểu kết cấu thứ nhất là : Trạng nhầm lẫn về một tổ hợp chữ nghĩa, đúng ra là A nhƣng Trạng gọi là B, nào ngờ B lại phù hợp với thực tế đang xảy ra. Nhƣ truyện đã trích dẫn ở trên, nhìn thấy biển đề chữ “Thủ chƣ dự” (lấy trong quẻ dự – chữ ở Kinh dịch),
Chung Nhi lại hiểu nhầm sang “thủ chƣ” (tức là sỏ lợn) nên mới bảo “Tối nay anh em ta đƣợc chén thủ lợn”. Nào ngờ, do yếu tố ngẫu nhiên là nhà Chung Nhi và các bạn ở nhà lại là nhà ông tiên chỉ, mới đƣợc làng biếu cái thủ lợn, rộng lòng hiếu khách, ông ta đã pha thủ lợn ra đãi khách. Kiểu kết cấu thứ hai là: Trạng nắm bắt vấn đề một cách lờ mờ và ứng phó theo cách hiểu lờ mờ ấy, không ngờ là lối ứng phó kia lại trúng ý ngƣời giao tiếp. Nhƣ ở truyện “Đối” đã dẫn ở trên, Chung Nhi vốn dốt đặc, thấy trong phòng nhà nàng Phấn Khanh có mấy chữ đề trên tƣờng “Bát đao phân mễ phấn” do nàng viết, ngầm thách đối, Chung Nhi chỉ nhận ra mỗi chữ “Phấn” là tên ngƣời đẹp, nên thật thà chỉ biết mỗi chữ tên mình là “Chung” và viết luôn tên mình lên tƣờng.
Yếu tố ngẫu nhiên khiến nàng Phấn Khanh giỏi chữ nghĩa, lại luận chữ “Chung” ra là “Thiên lí trọng kim chung” mà nức nở khen hay rồi đem lòng yêu mến anh chàng Chung Nhi kia. Đó là những kiểu kết cấu thƣờng gặp trong các mẩu truyện thuộc truyện Trạng Lợn, nhƣng lại hoàn toàn xa lạ với các hệ thống truyện trạng khác.
Còn một số mẩu chuyện khác thì có kiếu kết cấu thứ ba, có vẻ nhƣ gần hơn với thể loại truyện trạng. Đó là trƣớc một thử thách, trạng sáng suốt tìm ra lời giải để vƣợt qua. Nhƣ chuyện “Thử gỗ”: “Hôm sau y lấy cây gỗ lớn
ngầm đem bào nhẵn đầu đuôi như nhau rồi đố vua Thánh Tôn xem đầu nào là ngọn.
Vua lại hỏi Trạng, Trạng tâu: – Bệ hạ chớ lo, hạ thần đã có cách.
Đêm đến Trạng bèn sai người ra phóng uế bừa bãi vào mấy cây gỗ. Sáng, Trạng kêu rầm lên là dơ bẩn bắt khiêng gỗ ra sông rửa và dặn hễ thả xuống hấy đầu nào chìm thì đánh dấu. Khi đem gỗ về, trạng ung dung chỉ vào đầu có dấu bảo đó là gốc.”
Ở truyện “Thử gỗ” này, Trạng Lợn đã dùng kinh nghiệm dân gian để xử lý tình huống có vấn đề chứ không phải là ngồi chờ cơ may hay có một yếu tố ngẫu nhiên may mắn giúp đỡ. Kết cấu này ta cũng bắt gặp ở một số mẩu chuyện khác nữa, trong đó có truyện “Chơi cờ với sứ Tàu”: “Năm ấy vua
Tàu sai sứ sang nước ta để phong vương cho vua Thánh Tôn. Như vua Tàu còn có ý muốn thử xem vua ta ra sao. Một hôm sứ Tàu rủ nhà vua đánh cờ. Vua lo lắm, gọi Trạng Lợn vào hỏi làm cách gì để thắng cờ. Trạng tâu:
– Bệ hạ cứ cho bầy bàn cờ ra giữa sân rồi sai Trạng Cờ ăn mặc giả làm lính che lọng đứng hầu. Trên lọng, dùi một lỗ thủng. Hễ Trạng Cờ xoay lọng, ánh nắng chiếu vào chỗ nào thì bệ hạ cứ nhắc quân đi vào chỗ ấy.
Vua khen phải sai lập bàn cờ. Quả nhiên đánh một lúc sứ Tàu bị dồn vào