Kế toán quản trị là gì? Kế toán quản trị khác kế toán tài chính thế nào? Đối tượng chi phí trong kế toán quản trị là gì? Và phân loại các đối tượng này như thế nào? Bài viết dưới đây FMIT giới thiệu một số thông tin tóm lược về kế toán quản trị và phân loại một số đối tượng chi phí. Thông tin chi tiết và chuyên sâu có thể tìm thấy ở khóa học liên quan về kế toán quản trị được tổ chức tại FMIT.
Kế toán quản trị (managerial accounting) khác kế toán tài chính (fianancial accounting) thế nào?
Kế toán quản trị (managerial or management accounting) ra đời nhằm hỗ trợ ban quản lý ra các quyết định để đo, phân tích, và báo cáo các thông tin liên quan đến tài chính và thông tin liên quan khác. Mặc dù nghe có vẻ tương tự như kế toán tài chính, nhưng kế toán quản trị và kế toán tài chính có sự khác nhau cơ bản:
- Kế toán quản trị đưa ra các thông tin dành cho các nhà quản lý bên trong công ty. Dữ liệu kế toán quản trị nhằm cung cấp cho các nhà quản lý các thông tin cần thiết để hiện thực chiến lược và ra các quyết định kinh doanh ở nhiều cấp trong tổ chức. Điều này có thể là giám đốc bán hàng tập trung vào bán một sản phẩm cụ thể trong một tháng cụ thể ở một đại diện bán hàng nào đó, hoặc cũng có thể là CEO xem xét tổng doanh số bán hàng trong một khu vực nào đó.
- Kế toán quản trị tập trung vào kết quả, ngân sách, và dự báo trong tương lai. Trong khi kế toán tài chính trọng tâm là kết quả trong quá khứ, ghi chép, báo cáo kết quả đã diễn ra.
- Kế toán quản trị và việc báo cáo theo các quy tắc và hướng dẫn nội bộ được xây dựng bởi tổ chức để đáp ứng nhu cầu riêng của họ. Trong khi kế toán tài chính phải theo các yêu cầu bên ngoài như GAAP và IFRS.
- Kế toán quản trị tập trung cung cấp các báo cáo trong những khung thời gian khác nhau tùy thuộc vào nhu cầu cụ thể của tổ chức. Các báo cáo này có thể theo giờ, theo ngày, theo tháng, hoặc năm. Báo cáo tài chính cung cấp báo cáo theo yêu cầu bên ngoài, thường sử dụng hàng tháng, quý hoặc hàng năm.
- Kế toán quản trị có thể báo cáo dữ liệu cho bất kỳ phần nào của tổ chức. Kế toán tài chính thì có xu hướng bao cáo dữ liệu trên phương diện toàn bộ tổ chức.
Chú ý rằng ngoài hồ sơ tài chính cho báo cáo bên ngoài và báo cáo quản trị, một tổ chức có thể có nhiều hồ sơ tài chính khác, tùy vào nhu cầu báo cáo của họ. Các ví dụ có thể là hồ sơ báo cáo thuế (trường hợp này báo cáo thuế không cần theo phương pháp thực tế tích lũy của kế toán; nó có thể sử dụng phương pháp tiền mặt) và các hồ sơ báo cáo về quy định luật pháp. Phần này thuộc về các hồ sơ kế toán chi phí và kế toán quản trị.
Kế toán chi phí thu thập, phân tích và báo cáo thông tin về chi phí của sản phẩm, quy trình, dự án hoặc bất kỳ mối quan tâm nào. Nó cung cấp thông tin cho cả kế toán quản trị và kế toán tài chính. Ví dụ, chi phí liên quan với nguyên liệu được sử dụng đẻ tạo ra sản phẩm được dùng trong báo cáo tài chính để định giá tồn kho và báo cáo về giá vốn. Chi phí như vậy vẫn được dùng trong kế toán quản trị để giúp ban quản lý ra các quyết định liên quan đến nhà cung cấp, quy trình sản xuất, kế hoạch sản xuất, v.v.
Khái niệm về chi phí (cost concept) là gì?
Chi phí thường được định nghĩa là tài sản tài chính sử dụng để hoàn thành một mục tiêu (ví dụ, để mua một tài sản hoặc sản xuất ra sản phẩm). Với mục đích kế toán chi phí, khi nói đến mục tiêu này, nên đồng bộ với đối tượng chi phí. Đối tượng chi phí là bất kỳ thứ gì mà chúng ta muốn tính chi phí. Đối tượng chi phí có thể là tài sản, dòng sản phẩm, phòng ban, một hoạt động hay quy trình.
Các nhà quản lý sử dụng thông tin chi phí tương ứng với các đối tượng chi phí để ra quyết định về quản lý. Chi phí thực chi khác với chi phí theo ngân sách. Chi phí thực chi (actual costs) là số tiền đã chi trả hoặc trách nhiệm phải thực hiện đối với một tài sản; chi phí ngân sách là chi phí mang tính chất dự báo. Các nhà quản lý thường quan tâm cả hai loại chi phí trên.
Phân loại chi phí
Chi phí bao gồm tất cả các chi phí cần thiết để có được đối tượng chi phí sẵn sàng trong việc tạo ra các lợi ích về tài chính. Ví dụ, giá vốn (cost of goods sold) không những bao gồm tiền đã trả (hoặc trách nhiệm cần thực hiện) cho nguyên liệu thô sử dụng trong sản xuất mà còn là chi phí phân bổ cho việc giám sát sản xuất và chi phí chung. Sự khác biệt giữa chi phí nguyên liệu thô và chi phí giám sát phản ánh sự khác biệt giữa chi phí trực tiếp (direct cost) và gián tiếp (indirect cost).
Chi phí trực tiếp (direct cost) là gì?
Chi phí trực tiếp có thể được theo dõi trực tiếp với đối tượng chi phí cụ thể. Không cần phải thực hiện biện pháp điều chỉnh nào để gán chi phí và đối tượng chi phí. Ví dụ, chi phí trực tiếp để sản xuất một cái ghế làm việc có thể được nhận ra bằng hóa đơn cho nguyên liệu cụ thể sử dụng và thời gian làm việc của nhân công cụ thể liên quan đến việc sản xuất ghế.
Chi phí gián tiếp (indirect costs) là gì?
Chi phí gián tiếp cũng được gọi là chi phí chung (shared costs), và chúng thường không thể theo dõi một cách trực tiếp tương ứng với đối tượng chi phí được. Cần phải có các hành động can thiệp ở dạng như phân bổ chi phí để liên kết chi phí gián tiếp vào đối tượng chi phí. Ví dụ, chi phí thuê nhà xưởng để sản xuất ghế thì không thể gán trực tiếp cho ghế nếu nhiều nội thất khác cũng được sản xuất ở đây. Với tình huống này, chi phí thuê phải được phân bổ cho nhiều sản phẩm, bao gồm cả ghế. Việc phân bổ chi phí sẽ giúp phân bổ chi phí gián tiếp vào các đối tượng chi phí trên một cơ sở hợp lý.
Cách phân loại chi phí trong lĩnh vực sản xuất
Có 3 lĩnh vực kinh doanh chính bao gồm: sản xuất, thương mại và dịch vụ. Mỗi lĩnh vực có đặc trưng tài chính riêng – chi phí và hình thức chi phí, tỉ lệ và tiêu chuẩn cụ thể trong từng lĩnh vực. Để mở rộng sự hiểu biết về khái niệm chi phí, phần này sẽ giới thiệu một số phân loại chung sử dụng trong lĩnh vực sản xuất. Các khái niệm tương tự áp dụng cho lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Phân loại chi phí trong sản xuất hoặc bất kỳ lĩnh vực kinh doanh nào được xây dựng trên khái niệm về chi phí trực tiếp và gián tiếp như đã nói ở trên. Việc phân loại chi phí sản xuất bao gồm:
Chi phí nguyên liệu trực tiếp (direct material cost) là gì?
Đây là các chi phí để có được nguyên liệu sử dụng để sản xuất ra sản phẩm. Chúng bao gồm toàn bộ các chi phí có thể theo dõi được liên quan đến việc có được sản phẩm sẵn sàng để tạo ra các lợi ích về mặt tài chính. Đây có thể bao gồm chi phí giao hàng, thuế và bất kỳ chi phí nào khác để có được nguyên liệu. Một ví dụ về chi phí nguyên liệu trực tiếp là chi phí cho vải lưới sử dụng cho ghế làm việc, thuế tương ứng và chi phí chuyển hàng. Chi phí này có thể thấy rõ ràng trong hóa đơn.
Chi phí nhân công sản xuất trực tiếp (Direct manufacturing labor costs) là gì?
Có nhiều loại chi phí về nhân công tham gia trực tiếp vào trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Đây bao gồm lương và phúc lợi chi trả cho nhân công tham gia sản xuất hoặc cống hiến thời gian của họ để làm việc tạo ra sản phẩm.
Chi phí chung sản xuất (Manufacturing overhead costs (indirect costs) là gì?
Đây là các chi phí gián tiếp để tạo nên giá vốn của (COGS) hoặc là tồn kho. Đây bao gồm tất cả các chi phí khác liên quan đến sản xuất sản phẩm có thể được phân bổ vào cho tất cả các sản phẩm. Đây cũng có thể bao gồm công cụ sử dụng chung, nguyên liệu gián tiếp như keo và các thành phần thứ yếu có thể sử dụng trong sản xuất cho nhiều loại sản phẩm, nhân công gián tiếp như bảo trì, giám sát, nhà xưởng được thuê và bảo hiểm, thuế, khấu hao, v.v.
Chi phí chung của tổ chức (Corporate overhead costs) là gì?
Có nhiều chi phí gián tiếp và bao gồm tất các các chi phí và chi tiêu khác không thể theo dõi trực tiếp vào trong sản xuất. Những chi phí này có thể là chi phí thời gian (period costs).
Một vài lĩnh vực phân loại ra chi phí có thể so sánh được. Nhưng những khái niệm về chi phí trực tiếp và gián tiếp thì vẫn sử dụng như vậy. Có thể phân biệt các chi phí trong sản xuất là chi phí tồn kho (inventoriable cost) và chi phí thời gian (period cost).
Chi phí tồn kho (inventoriable costs) là gì?
Đây là những chi phí (bao gồm trực tiếp và gián tiếp) cần thiết để có được đối tượng chi phí sẵn sàng để tạo ra lợi ích về tài chính. Chi phí tồn kho được cũng được gọi là chi phí sản phẩm (product costs). Khi tồn kho được bán đi, những chi phí này trở thành giá vốn (COGS). Trong sản xuất, những chi phí này bao gồm nguyên liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp và chi phí chung sản xuất đã được nói ở trên. Công ty thương mại mua sản phẩm từ nhà cung cấp và bán lại mà không thay đổi hình thức của sản phẩm. Với công ty thương mại, chi phí tồn kho bao gồm chi phí mua sản phẩm để bán lại công với những chi phí cần thiết khác để có được sản phẩm sẵn sàng để bán như là chi phí vận chuyển, bảo hiểm, đóng gói.
Chi phí thời kỳ (period costs) là gì?
Chi phí thời kỳ không thể gán vào một sản phẩm cụ thể được (không bao gồm trong giá vốn COGS hoặc giá của tồn kho). Chúng là chi phí theo thời kỳ vì chúng được kỳ vong để cung cấp các lợi ích trong những thời kỳ tương lai. Chi phí chung của tổ chức là chi phí thời kỳ. Ví dụ chi phí thời kỳ về marketing, bán hàng, chi phí quản trị chung và lãi suất. Với công ty sản xuất, chi phí thời kỳ là tất cả các chi phí không phải chi phí tồn kho, như là chi phí vận chuyển sản phẩm đến khách hàng. Với công ty thương mại, chi phí thời kỳ bao gồm chi phí nhân viên để bán hành, chi phí quảng cáo, v.v.
Hành vi chi phí (cost behavior patterns) là gì?
Các quy trình quyết định của quản lý về kế hoạch sản phẩm, ngân sách vốn, phân tích lợi ích chi phí và phát triển kế hoạch tài chính đều yêu cầu sự hiểu biết rõ về hành vi chi phí. Hành vi chi phí mô tả mối quan hệ giữa chi phí và các hoạt động kinh doanh.
Có 3 loại hành vi chi phí như sau:
Định phí (fixed costs) là gì?
Định phí không biến đối về tổng số theo quy mô các hoạt động kinh doanh. Chúng không ảnh hưởng ngay lập tức theo việc thay đổi sản lượng kinh doanh. Ví dụ định phí là chi phí mà ngân hàng thu lệ phí các khoản tiền gửi hàng tháng. Phí duy trì này phải trả như nhau mà không quan tâm đến số lượng giao dịch trong tài khoản.
Định phí được xem như là chi phí trọn gói trong phân tích quyết định. Tuy nhiên, định phí cho từng đơn vị của hoạt động sẽ gaimr nến mức độ hoạt động tăng. Phí duy trì tài khoản sẽ duy trì như nhau mà không quan tâm đến số lượng giao dịch thực hiện. Vì thế, chi phí 100 đô duy trì cho 10 giao dịch sẽ khác với 100 đô duy trì cho 100 giao dịch.
Biến phí (variable costs) là gì?
Tổng biến phí sẽ thay đổi trực tiếp với tỉ lệ mức độ của hoạt động kinh doanh. Giá vốn là biến phí. COGS thông thường tăng khi mức độ bán hàng và sản xuất tăng và giảm nếu mức độ sản xuất và doanh thu giảm. Nhiều công ty thể hiện COGS như là chi phí cho mỗi đơn vị được sản xuất. Biến phí cho mỗi đơn vị không thay đổi dựa trên số lượng của hoạt động.
Chi phí bán phần (semi variable or mixed cost) là gì?
Một số chi phí có thể là hỗn hợp và tăng theo các cấp bậc. Giả sử một nhân viên khoản phải thu có thể xử lý được 20 giao dịch mỗi giờ. Nhân viên 2 xử lý giao dịch thứ 21 trở đi, vì thế 2 nhân viên xử lý 40 giao dịch. Tương tự vậy, 3 nhân viên xử lý 60 giao dịch. Kết quả đây là chi phí hỗn hợp bao gồm cả định phí và biến phí.
chương trình đào tạo tại fmit
- Giám đốc điều hành
- Quản lý chuỗi cung ứng
- Quản lý dự án
- Kiểm toán nội bộ
- Quản trị rủi ro
- Kế toán quản trị
- Phát triển năng lực lãnh đạo
- Chiến lược và quản trị hiện đại
- Lean ứng dụng
- Agile
- Giám đốc kiểm toán nội bộ
- Luyện thi chứng chỉ quản lý dự án quốc tế PMP
- Luyện thi chứng chỉ quản lý chuỗi cung ứng quốc tế CSCP
- Luyện thi chứng chỉ kiểm toán nội bộ quốc tế CIA
- Luyện thi chứng chỉ quốc tế kiểm soát nội bộ CICS