1. Tổ chức cơ sở Đảng là gì?
Theo điều 21 Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã quy định như sau:
Tổ chức cơ sở Đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của đảng, hạt nhân chính trị cơ bản.
‐ Đối với thành phố trực thuộc trung ương, thị xã và địa phương có từ 3 đảng viên chính thức trở lên thì thành lập tổ chức cơ sở đảng (thuộc đảng bộ cấp huyện), đối với tổ chức, công ty, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, quân đội, công an và các đơn vị khác có từ 3 đảng viên chính thức trở lên thì thành lập tổ chức cơ sở Đảng (tổ chức cơ sở Đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở);
‐ Tổ chức cơ sở Đảng dưới 30 Đảng viên lập chi bộ cơ sở và các tổ Đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở đảng có từ 30 đảng viên trở lên phải thành lập đảng bộ cơ sở và có chi bộ trực thuộc đảng ủy;
‐ Điều 10 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định rõ như sau: “Tổ chức cơ sở Đảng được lập tại hành chính, sự nghiệp, kinh Tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh,…Điều lệ đảng cũng có quy định riêng đối với đảng bộ, các tổ chức trong quân đội và nhân dân, Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam.
Như vậy, tổ chức cơ sở Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở. Đảng bộ cơ sở gồm có: Đảng bộ cơ sở có các chi bộ trực thuộc; Đảng bộ cơ sở có đảng bộ bộ phận và chi bộ trực thuộc. Tất cả các tổ chức đảng đều có cấp ủy ban cấp trên trực tiếp lãnh đạo. Ví dụ, huyện ủy là cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng ở thị xã, địa phương thuộc huyện đó; quận ủy và cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng ở phường thuộc quận.
Ngoài ra, trong một số tổ chức cơ sở Đảng còn có Đảng bộ bộ phận trực thuộc Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý. Trong các Đảng bộ bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
Xem thêm: Phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
2. Vai trò của tổ chức cơ sở Đảng:
Với tư cách là cơ sở của đảng, tổ chức cơ sở Đảng có vai trò hết sức quan trọng đối với sức mạnh của đảng. Là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ thống tổ chức bốn cấp của Đảng ta, là cấp tổ chức rộng lớn nhất, liên quan đến các đơn vị cơ sở trong toàn miền và các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội cùng bảo đảm sự lãnh đạo của đảng ở mọi cấp cơ sở, mọi đảng viên và mọi người dân. Với tư cách là hạt nhân chính trị cơ bản, tổ chức cơ sở Đảng là nơi thể hiện toàn diện, trực tiếp và chính xác nhất mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Tại đây:
‐ Trực tiếp triển khai, chỉ đạo các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
‐ Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
‐ Đánh thức nguồn lực tinh thần của nhân dân;
‐ Đồng thời là nơi trực tiếp thực hiện các chức năng quan trọng trong công tác xây dựng và phát triển đảng như tiếp nhận, quản lý, phân công, nghiên cứu, đánh giá, sàng lọc đảng viên;
‐ Tham gia tiếp thu, hoàn thiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước;
‐ Nơi đảng viên thường xuyên rèn luyện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động;
‐ Nơi xuất phát đề cử và cung ứng cán bộ cho các cơ quan lãnh đạo của đảng các cấp.
; là tổ chức gần dân nhất, trực tiếp lãnh đạo nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng để đảng xem xét. Nhân dân tin đảng, theo đảng hay không bởi vai trò rất quan trọng, trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng và cán bộ đảng viên tại cơ sở.
Xem thêm: Mẫu đơn và thủ tục xin ra khỏi Đảng cộng sản Việt Nam năm 2023
3. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng:
Theo điều 23 Điều lệ đảng quy định về những nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng như sau:
‐ Tuân thủ các nguyên tắc của đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước; xác định phương hướng, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả.
‐ Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện kiểm điểm tự phê bình, giữ vững kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống nhất trong đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến đấu, trình độ kiến thức và năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng.
‐ Lãnh đạo xây dựng tổ chức chính quyền, tổ chức kinh Tế, hành chính, sự nghiệp, quốc phòng, an ninh, tổ chức chính trị – xã hội trong sạch, vững mạnh; thực hiện nghiêm pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
‐ Có sự liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cùng bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân.
‐ Hướng nhân dân tham gia xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước.
‐ Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh các nghị quyết, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; theo dõi, kiểm tra việc chấp hành điều lệ đảng của tổ chức đảng và đảng viên.
‐ Các ủy ban cơ sở của đảng có thể, với sự cho phép của lãnh đạo trực tiếp của họ, quyết định kết nạp và cho các đảng viên ra khỏi đảng.
Xem thêm: Mẫu giấy giới thiệu người vào Đảng cộng sản Việt Nam (Mẫu 3-KNĐ) mới nhất năm 2022
4. Các tổ chức cơ sở Đảng:
‐ Đại hội đại biểu tổ chức cơ sở đảng hoặc đại biểu đảng viên do cấp uỷ cơ sở triệu tập 5 năm một lần; có thể gặp nhau sớm hay muộn, nhưng không quá một năm.
‐ Đại hội giải quyết hồ sơ của các cơ quan giám sát; đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ vừa qua; quyết định nhiệm vụ cho nhiệm kỳ sau; bầu các ủy ban; đại biểu được chọn tham gia đại hội đảng bộ cấp trên.
‐ Cần triệu tập đại hội chi bộ hoặc đảng viên bất thường nếu cấp uỷ xét thấy cần thiết hoặc có quá nửa số tổ chức đảng tham gia yêu cầu và được cấp trên trực tiếp đồng ý.
‐ Đại biểu dự Đại hội đại biểu bất thường là cấp ủy viên đương nhiệm, đại biểu đã dự kỳ họp thứ nhất của cấp ủy, sinh hoạt tại đảng bộ và đủ tư cách. Các đảng viên thuộc đảng bộ có liên quan tham gia đại hội bất thường của đảng bộ.
‐ Đảng uỷ, chi uỷ cơ sở họp thường lệ mỗi tháng một lần; họp bất thường khi cần.
‐ Các đảng ủy cơ sở có chín thành viên trở lên bầu ra một ủy ban thường trực; bầu bí thư, phó bí thư trong số uỷ viên thường trực; dưới chín thành viên chỉ bầu bí thư và phó bí thư.
‐ Đảng bộ cơ sở mỗi năm họp thường kỳ 2 lần; họp bất thường nếu cần thiết. Chi bộ cơ sở họp định kỳ mỗi tháng một lần; họp bất thường nếu cần thiết.
Xem thêm: Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam và văn bản hướng dẫn thi hành mới nhất năm 2022
5. Thực trạng của tổ chức cơ sở Đảng:
5.1. Thành tựu:
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa đến nay, Đảng ta đã ra sức xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở Đảng trong thời kỳ cách mạng mới và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Hầu hết các tổ chức cơ sở Đảng nhận thức đúng và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ lãnh đạo cơ sở chính trị cơ sở; quán triệt sâu sắc quan điểm “lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Trong đó, gắn xây dựng, củng cố tổ chức Đảng với đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương; xây dựng, thực hiện quy chế làm việc cấp ủy tổ chức đảng và tổ chức cơ sở của UBND xã cùng tập trung củng cố, kiện toàn các tổ chức Đảng yếu kém; tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng, hoàn thiện đảng bộ chính trị gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Trình độ quản lý thực hiện nhiệm vụ chính trị có tiến bộ, năng lực lãnh đạo công tác tư tưởng, công tác tổ chức, đoàn thể chính trị – xã hội của bộ khung và tổ chức cơ sở, công tác xây dựng tổ chức Đảng có nhiều thay đổi tích cực. Hệ thống công tác đảng bộ, ban ngành có nhiều chuyển biến tích cực, cơ bản bảo đảm việc thực hiện các quy định của điều lệ đảng; nguyên tắc tổ chức, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng được thực hiện tốt hơn. Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên tăng lên; tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ bản ổn định, nội bộ đoàn kết, thống nhất. Công tác kiểm tra, giám sát được cải thiện, chất lượng và hiệu quả được nâng cao.
Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, phân công nhiệm vụ công tác và kiểm tra, kiểm soát đảng viên được thực hiện thường xuyên. Việc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Một số cán bộ, đảng viên được đào tạo cơ bản, nhiều đồng chí được rèn luyện, thử thách và trưởng thành qua rèn luyện tại chỗ. Đa số giữ vững bản lĩnh chính trị, có ý thức giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, gương mẫu thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ, Điều lệ Đảng; tích cực học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ và khả năng công tác, thực hiện nhiệm vụ được giao; Số đảng viên vi phạm kỷ luật giảm dần qua các năm. Tình trạng quan liêu, cửa quyền, xa dân từng bước được khắc phục. Nhiều quần chúng, cá nhân ưu tú được kết nạp vào Đảng.
5.2. Hạn chế:
Tuy nhiên, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức Đảng còn yếu, chưa giải quyết được những vấn đề phức tạp ở cơ sở. Có nơi đến cùng vẫn chưa thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân. Khả năng triển khai, cụ thể hóa, tổ chức thực hiện các chỉ thị, nhiệm vụ của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thực hiện và giải quyết tốt nhiệm vụ, công tác của các tổ chức cơ sở, nhất là trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và quản lý tổ chức, lao động. Trong lãnh đạo chưa có giải pháp tích cực để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng và quản lý của các đoàn thể chính trị – xã hội. Thậm chí, có lúc cấp ủy thiếu chủ động, ỷ lại chuyên môn hoặc “hợp thức hóa” các quyết định của lãnh đạo một số cơ sở, nhất là về công tác nhân sự.
Chất lượng sinh hoạt đảng còn hạn chế. Một số cấp ủy, chi bộ thực hiện chưa tốt nề nếp điều hành sinh hoạt, nội dung sinh hoạt chậm đi vào thực chất, sinh hoạt tư tưởng, sinh hoạt chuyên đề chưa được quan tâm; Dân chủ chưa thực sự được phát huy trong sinh hoạt, có nơi còn hình thức; tình trạng những biểu hiện tiêu cực còn e ngại, nể nang, né tránh, không dám đấu tranh còn khá phổ biến. Tinh thần kiểm điểm và tự phê bình ở nhiều nơi còn yếu, nhất là trong đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực ở cơ sở. Tổ chức Đảng còn nhiều yếu kém, yếu tố chính trị – xã hội phức tạp. Một số tổ chức cơ sở đảng ở thị xã, giáo xứ, địa phương chưa khắc phục được bệnh quan liêu, bao cấp; Vai trò của tổ chức chức cơ sở Đảng trong các đơn vị hành chính, tổ chức phi thương mại và doanh nghiệp còn chưa rõ ràng, lãnh đạo chưa quan tâm nhiều đến công tác xây dựng đảng. Ở các doanh nghiệp tư nhân, công tác phát triển đảng viên còn chậm và chưa được quan tâm đúng mức. Việc đánh giá, phân loại tổ chức đảng, đảng viên hàng năm ở một số cấp ủy cơ sở còn mang tính hình thức, chạy theo thành tích, chưa phản ánh chính xác chất lượng của Đảng và đảng viên, tình hình tư tưởng với số lượng vị trí công tác không cao thực sự chưa ổn định, tính đồng thuận chưa cao, thậm chí có nơi còn biểu hiện suy thoái. Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng còn hạn chế, chưa có biện pháp tích cực phòng ngừa, phát hiện, đẩy lùi và xử lý nhanh các tổ chức đảng vi phạm. Trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác của một số cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mất ý chí phấn đấu, vi phạm nguyên tắc đảng, sinh hoạt thiếu gương mẫu, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, hoàn thành nhiệm vụ được giao; Khả năng làm việc chung, hợp tác chưa cao, thiếu tình đồng chí. Các tư tưởng cơ hội, bè phái, bảo thủ, hẹp hòi, nể nang, quan liêu, cá nhân, bè phái gây mất đoàn kết trong Đảng từng bước bị đánh. Tư tưởng cơ hội, cục bộ, bảo thủ, hẹp hòi, níu kéo, quan liêu, cá nhân chủ nghĩa, phe cánh gây mất đoàn kết trong Đảng chậm được khắc phục.
Sau khi đánh giá về tổ chức và hiệu quả hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam giai đoạn vừa qua, Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: Kiện toàn và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ Đảng đạt nhiều kết quả tích cực. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ sở đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý và nâng cao chất lượng đảng viên được duy trì, hướng dẫn. Số lượng thành viên mới tăng lên hàng năm. Bên cạnh đó, Đại hội cũng công khai chỉ rõ những hạn chế, yếu kém, chậm tiến cần khắc phục như năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức cơ sở Đảng còn thấp. Công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt chi bộ rời rạc, nội dung sinh hoạt yếu; tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng các tổ chức phi chính phủ thành công ty tư nhân và đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của các tổ chức đảng ở đây còn yếu.
5.3. Nguyên nhân:
Lý do: Những hạn chế, yếu kém nêu trên là do mặt trái của cơ chế thị trường và những tiêu cực xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng và sự phấn đấu của cán bộ, đảng viên. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đảng chưa thật nhạy bén, chưa có giải pháp hữu hiệu làm chuyển biến mạnh mẽ chất lượng tổ chức đảng và đảng viên. Một số cấp ủy nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng, trách nhiệm của tổ chức Đảng; Chưa đầu tư nhiều cho công tác nghiên cứu, tìm hiểu để nâng cao chất lượng hoạt động, chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác xây dựng, củng cố tổ chức Đảng ở cơ sở. Mặt khác, bản thân các đảng bộ cơ sở thiếu chủ động trên nhiều lĩnh vực, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên. Công tác quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, có nơi còn buông lỏng. Chưa thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp của các cấp ủy, tổ chức đảng, của lãnh đạo cơ quan, đơn vị trong công tác xây dựng, quản lý đảng và rèn luyện cán bộ, đảng viên. Một số đảng viên giữ cương vị lãnh đạo chưa thực sự gương mẫu trong hành động và chấp hành điều lệnh của cơ sở; phê bình chưa tốt, chưa chăm lo đúng mức công tác xây dựng đảng ở cơ sở, đơn vị.