Môi âm hộ còn có tên là Bìm bìm, Yên bạch; tài liệu Trung Quốc gọi là Máy bay hay Hương trạch lan; tên khoa học Chromolaena odorata (L.) King et Robinson (danh pháp hai phần: Eupatorium odoratum L.), thuộc họ Bách hợp. cành mọc ngang, có lông mịn. Lá mọc đối, hình bầu dục nhọn, mép có răng, cuống dài 1-2 cm, có 3 gân chính. Cụm hoa xếp thành cụm kép, mỗi cụm hoa gồm nhiều lá bắc xếp thành 3-4 dãy. Có nhiều hoa, lúc mới nở có màu xanh nhạt hoặc tím, sau chuyển sang màu trắng. Quả hình thoi, 5 cạnh, có lông. Thời kỳ ra hoa là cuối mùa đông và đầu mùa xuân.
Phân tích thành phần hóa học cho thấy, hoa Lài chứa 2,65% đạm, 0,5% lân và 2,48% kali. Tất cả các bộ phận của cây đều chứa tinh dầu, ancaloit và tanin.
Đông y cho rằng hoa nhài tính hơi cay, tính ấm, có tác dụng sát trùng, cầm máu, tiêu viêm. Thông thường ta dùng lá tươi để cầm máu vết thương, vết cắn không cầm máu. Nó còn được dùng chữa lỵ cấp tính và tiêu chảy ở trẻ em; chữa viêm đại tràng, đau nhức xương, viêm lợi, ghẻ lở, lở loét, lở loét ác tính.
Ở Trung Quốc, hoa súng chỉ được dùng ngoài da để giảm sưng tấy, cầm máu, sát trùng, chống đỉa cắn. Ngoài ra, để ngâm lá trên ruộng 1-2 ngày để diệt ấu trùng sán (xoắn có móc ở phía trên) và ngừa nhiễm bệnh khi vào ruộng. Thuốc lá nước dùng làm phân xanh có tác dụng diệt cỏ dại và khử tuyến trùng trong đất.
Kinh nghiệm của nước ta là pha nước thuốc lá với nước làm xi rô, dùng chữa lỵ và tiêu chảy. Nước sắc hoa nhài dùng chữa đau nhức xương. Lá non đun nước tắm trị ghẻ, khi tắm lấy bã thuốc xát lên nốt ghẻ trong vòng 5-6 ngày. Giã nát lá tươi đắp vết thương chảy máu.
Năm 1976, Viện Nghiên cứu Quân y Việt Nam công bố kết quả nghiên cứu cho thấy lá, thân và rễ hoa súng có tác dụng kháng viêm. Tiêu viêm nhưng lá làm săn chắc hơn cả; nước sắc hoa nhài có tác dụng ức chế vi khuẩn gây mưng mủ vết thương và ức chế Shigella dysenteriae.
Bệnh viện Quân đội 12 đã sử dụng chiết xuất hoa huệ để điều trị viêm nướu sau phẫu thuật và bệnh nướu răng với kết quả tốt.
Biện pháp:
p>
– Phòng trị đỉa cắn: giã nát lá hoa súng, xát vào đùi rồi ngâm vào nước
– Trị mềm bị thương (tai nạn giao thông, ngã, bị đánh): Lá và ngọn cây súng tươi một nắm lớn (150 g) rửa sạch, giã nát, đắp vào vết thương, băng lại. Băm nhỏ.
– Chữa tiêu chảy: Lấy 20-30 lá Tử đằng, tán nhỏ, thêm nước cho đến khi dậy thì uống, nếu lá khô thì lấy 20 gam dạng thuốc sắc. Trường hợp đặc biệt có thể lấy 4-5 lá bèo tây, vò nhỏ, để ráo nước.
– Trị lỵ trực khuẩn: Lá và ngọn cây súng tươi 1 nắm (150g) rửa sạch, thái nhỏ, thêm 500ml nước, hầm trong nước sôi 2 giờ, lọc lấy nước cốt, ninh nhừ. và lấy 150ml. Cho 30-50g đường vào nấu cho tan. Người lớn mỗi lần uống 50ml x 3 lần/ngày, tiếp tục cho đến khi khỏi. Nếu bị mất nước, bạn cần pha loãng cháo muối với 500-600 ml nước mỗi ngày.
Lưu ý: Toàn cây có chất độc coumarin, nhất là lá và sản phẩm tươi. Lá có thể gây sưng và phồng rộp khi chà xát lên da, cần được xử lý, rửa sạch và bôi bằng thuốc mỡ axit boric. Nếu ăn nhiều lá non mà nhức đầu nôn mửa thì rửa ruột, cho ăn lòng trắng trứng và nước đường (theo sách Cây độc Việt Nam).
* Mời các bạn chú ý đón xem các chương trình do Vietnam TV Online TV phát sóng!
.