“Chúng tôi cảm thấy cuộc khủng hoảng đạo đức của một thế giới hỗn độn, một thế giới bị tàn phá bởi cuộc đại suy thoái và Chiến tranh thế giới khốc liệt, và vào thời điểm đó, không thể vẽ loại tranh như chúng tôi đang làm – hoa, tranh khỏa thân và người chơi đàn cello.”
Barnett Newman
Abstract Expressionism là một sự phát triển của nghệ thuật trừu tượng bắt nguồn từ New York trong những năm 1940 và 1950 và nhằm mục đích biểu đạt cảm xúc chủ quan với đặc biệt nhấn mạnh vào hành động tự phát sáng tạo
Sau một cuộc chiến tranh thế giới quá khốc liệt, tàn khốc, làm sao chúng ta có thể đơn giản tiếp tục với cuộc sống, và nghệ thuật, theo cách như trước đây? Đây là câu hỏi mà nhiều nghệ sĩ đã tự hỏi mình sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào những năm 1940 và 1950 ở New York, một phong trào nghệ thuật mới bắt đầu nổi lên, trong đó các nghệ sĩ bắt đầu khám phá cách thể hiện cảm xúc và cảm giác thông qua các trường phái trừu tượng. Những nghệ sĩ này cảm thấy họ không còn có thể tiếp tục vẽ các nhân vật sau sự khủng khiếp của chiến tranh. Thay vào đó, họ tìm kiếm nơi ẩn náu trong lĩnh vực trừu tượng, khuyến khích thiền định và nội tâm. Những nghệ sĩ này được biết đến với cái tên Những người theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng
Trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một nhóm nghệ sĩ từ chối hình tượng để ủng hộ sự trừu tượng đã nổi lên ở Hoa Kỳ. Họ được biết đến với cái tên Những người theo chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít vào những năm 1930 ở châu Âu và kết quả là chiến tranh đã kéo theo một làn sóng nghệ sĩ nhập cư đến Hoa Kỳ. Những nghệ sĩ này đã mang theo những ý tưởng và thực hành của Chủ nghĩa Hiện đại Châu Âu. Nhiều nghệ sĩ được đào tạo tại Trường Mỹ thuật Hans Hofmann, do họa sĩ người Đức Hans Hofmann thành lập, hoặc tại Đại học Black Mountain thực nghiệm ở Bắc Carolina, nơi Joseph Albers đã giảng dạy. Ảnh hưởng của châu Âu đã dạy các nghệ sĩ về những đổi mới chính thức của Chủ nghĩa Lập thể, chủ nghĩa tự động(Automatism: việc tránh ý định có ý thức trong việc tạo ra các tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là bằng cách sử dụng các kỹ thuật máy móc hoặc các liên tưởng tiềm thức.) và nền tảng tâm lý của Chủ nghĩa Siêu thực .
Những người theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng bị ảnh hưởng sâu sắc bởi ý tưởng khám phá vô thức ngự trị trong Chủ nghĩa siêu thực, và bởi ý tưởng của nhà tâm lý học người Thụy Sĩ Carl Jung và việc khám phá những câu chuyện thần thoại (Myth) và cổ mẫu (Archetype: hình tượng có giá trị bền vững và phổ quát, thoát thai từ vô thức tập thể) của ông. Họ cũng bị thu hút bởi các nhà triết học hiện sinh như Jean-Paul Sartre . Những người theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng đã thể hiện cảm xúc và các chủ đề phổ quát thông qua những bức tranh sơn dầu thường hoành tráng của họ theo một phong cách phù hợp với tâm trạng đau thương và lo lắng sau chiến tranh.
Jackson Pollock, Convergence, 1952. Courtesy MoMA
Các phong cách khác nhau
Trong Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng, chúng ta có thể phân biệt giữa hai khuynh hướng: họa sĩ hành động (Action: Lối vẽ hành động, đôi khi được gọi là “trừu tượng hành động”, là một trường phái của hội họa mà trong đó sơn hoặc màu được nhỏ xuống, vẩy hoặc bôi lên vải một cách tự nhiên, chứ không phải là vẽ một cách cẩn thận.) và họa sĩ trường màu (Color field: một phong cách hội họa trừu tượng có lối vẽ theo từng mảng màu) .
Tranh theo lối vẽ hành động
Các họa sĩ hành động (action painters) là những nghệ sĩ theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng, những người có cách tiếp cận hội họa tập trung vào hành động vật lý của hội họa. Quá trình làm việc của họ liên quan đến việc làm bắn tung tóe và nhỏ giọt sơn lên khung vẽ, và họ thường sử dụng những nét vẽ hoang dã theo kiểu cử chỉ thay vì vẽ cẩn thận. Nhà phê bình nghệ thuật Harold Rosenberg đã đặt ra thuật ngữ hành động trong bài báo của ông “Những họa sĩ hành động Mỹ” (“The American Action Painters”), được đăng trên ARTnews vào tháng 12 năm 1952. Arshile Gorky, Franz Kline, Willem de Kooning và Jackson Pollock đều được coi là họa sĩ hành động. Pollock, với những bức tranh nhỏ giọt lớn của mình, được cho là họa sĩ hành động nổi tiếng nhất.
Tranh với lối vẽ trường màu
Thuật ngữ bức tranh trường màu lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1955 bởi Clement Greenberg để chỉ tác phẩm của Mark Rothko, Barnett Newman và Clyfford Still. Những nghệ sĩ này đã vẽ các tác phẩm đơn giản với diện tích lớn thường là một màu phẳng duy nhất nhằm tạo ra phản ứng trầm ngâm hoặc thiền định. Các nghệ sĩ lĩnh vực màu sắc đang tìm kiếm sự siêu việt và các trường màu sắc mở rộng, giàu cảm xúc của họ có mục đích nhấn chìm người xem và truyền cảm hứng cho sự chiêm nghiệm tinh thần và cảm giác mãnh liệt.
Các tác phẩm nghệ thuật mang tính biểu tượng của chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng
Jackson Pollock’s Number 1A (1948)
Jackson Pollock, Number 1A, 1948. Courtesy MoMA
Năm 1947, Jackson Pollock khám phá ra một phương thức vẽ tranh mới. Phương pháp này bao gồm việc đổ sơn và nhỏ giọt sơn lên một tấm cancas chưa được căng lên khung gỗ, và được đặt trên sàn của xưởng vẽ của ông ấy. Phong cách này được gọi là sơn nhỏ giọt. Vẽ tranh nhỏ giọt cho phép Pollock làm việc với sự ngẫu hứng, ngẫu hứng, chuyển động và cảm nhận. Trong bức tranh nhỏ giọt Số 1A của mình, Pollock đã thêm các dấu tay của mình vào phía trên bên phải của bố cục như một chữ ký. Anh rời xa sơn dầu của các nghệ sĩ truyền thống và sử dụng sơn men (Enamel paint: Loại sơn được làm khô trong không khí thành lớp hoàn thiện cứng, thường bóng, được sử dụng để phủ các bề mặt ở ngoài trời hoặc chịu sự mài mòn cứng hoặc thay đổi về nhiệt độ. Không phải men của gốm, sứ) thương mại cho các bức tranh nhỏ giọt của mình. Do tính linh hoạt của màu sơn này, ông ấy có thể trực tiếp nắm bắt các chuyển động của cơ thể mình trên khung vẽ. Pollock quyết định không đặt những tiêu đề gợi liên tưởng đến tranh của mình nữa và thay vào đó ông bắt đầu đánh số chúng, bởi vì các con số không có nghĩa và sẽ cho phép mọi người trải nghiệm bức tranh thuần túy.
Bức tranh tường Seagram của Mark Rothko (1958-1960)
Mark Rothko, Untitled (Seagram Murals), 1958. Courtesy Tate
Năm 1958, Mark Rothko được giao nhiệm vụ vẽ một loạt các bức tranh tường cho phòng ăn tại Nhà hàng Four Seasons ở Tòa nhà Seagram ở New York. Ông ấy đã làm việc không mệt mỏi trong hai năm, tạo ra một loạt các bức tranh trường màu chuyển động sâu sắc với màu đỏ sẫm, màu hạt dẻ và màu đen được gọi là Bức tranh tường Seagram.. Cuối cùng, ông đã hoàn thành nhiệm vụ và tặng hầu hết các bức tranh cho Phòng trưng bày Tate ở London. Các bưc tranh tường Seagram thể hiện mong muốn của các họa sĩ lĩnh vực màu sắc đạt được sự siêu việt về mặt tinh thần và truyền tải trải nghiệm cảm xúc mãnh liệt.
Cuộc khai quật của Willem De Kooning (1950)
Willem de Kooning, Excavation, 1950. Viện nghệ thuật lịch sự của Chicago
Cuộc khai quật của Willem de Kooning là bức tranh lớn nhất của ông cho đến thời điểm đó, và thể hiện nét vẽ biểu cảm đặc trưng của De Kooning và cách tổ chức không gian thành các mặt phẳng trượt khác nhau. Người nghệ sĩ đã lấy cảm hứng từ hình ảnh những người phụ nữ làm việc trên cánh đồng lúa trong bộ phim Tân cổ điển Riso Amaro năm 1949 của Giuseppe de Santis. Sự căng thẳng giữa trừu tượng và tượng hình được thể hiện rõ ràng ở đây, trong các dòng thư pháp dường như xác định các bộ phận giải phẫu. Quy trình vẽ chuyên sâu của De Kooning bao gồm xây dựng bề mặt và cạo các lớp sơn của nó trong nhiều tháng liên tục cho đến khi ông đạt được hiệu quả mong muốn.
Barnett Newman’s Onement (I) (1948)
Barnett Newman, Onement (I), 1948. Courtesy MoMA
Đối với Newman, Onement (I) là bước đột phá nghệ thuật của ông ấy. Đây là lần đầu tiên nghệ sĩ sử dụng một dải dọc để xác định cấu trúc không gian cho tác phẩm của mình. Dải dọc này, mà sau này Newman bắt đầu gọi là “zip”, đã trở thành dấu ấn đặc trưng của Newman. Dải dày, không đều vừa phân chia vừa hợp nhất thành phần. Newman cố gắng vẽ lại từ đầu, như thể bức tranh chưa từng tồn tại trước đây. Ông xem các sáng tác của mình như những hình thức tư tưởng và biểu hiện của trải nghiệm được sống.
“Người nghệ sĩ hiện đại làm việc với không gian và thời gian, và thể hiện cảm xúc của mình hơn là sự minh họa.”
Jackson Pollock
Chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng vượt ra ngoài New York
Với Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng, New York trở thành trung tâm mới của thế giới nghệ thuật. Tuy nhiên, bên ngoài New York, có nhiều trường phái nghệ thuật cũng đang rời bỏ sự miêu tả (representation) để chuyển sang trừu tượng (abstraction). Ví dụ, ở châu Âu trong những năm 1940 và 1950, có Art Informel, đề cập đến các khuynh hướng khác nhau của hội họa trừu tượng như tachisme, tranh vật chất và trừu tượng trữ tình. Mặc dù chủ yếu đề cập đến nghệ thuật châu Âu, các nghệ sĩ cũng được truyền cảm hứng và đón nhận Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng của Mỹ. Giống như những người theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng, những nghệ sĩ này lấy cảm hứng từ Chủ nghĩa siêu thực và sự tập trung của nó vào bức tranh theo chủ nghĩa tự động và tiềm thức.
>>> Xem thêm: Các mẫu tranh slogan treo văn phòng
Ảnh hưởng của chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng
Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng phát triển mạnh mẽ trong những năm 1940 và 1950, và các bức tranh đã được nhìn thấy trên khắp thế giới trong các cuộc triển lãm và ấn phẩm lưu động. Đến những năm 1960, Chủ nghĩa tối giản và Nghệ thuật đại chúng bắt đầu thay thế Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng trở thành trào lưu nghệ thuật thống trị. Thế hệ nghệ sĩ mới đã mệt mỏi với những tham vọng nghiêm túc và lớn lao của những người theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng và mong muốn của họ là khắc họa sự siêu việt và sự cao siêu trong nghệ thuật. Tuy nhiên, di sản của Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng vẫn còn đáng kể.
Lấy ví dụ, Frank Bowling, một nghệ sĩ chuyển đến New York vào giữa những năm 60 và bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Chủ nghĩa Biểu hiện Trừu tượng ở đó, tiếp tục vẽ theo phong cách này trong suốt sự nghiệp của mình, bất kể phong cách phổ biến của thời đại là gì. Hơn nữa, trong những năm gần đây, những phụ nữ theo trường phái Biểu hiện Trừu tượng như Lee Krasner, vốn bị lu mờ từ lâu so với những đàn ông cùng thời, cũng đang nhận được sự quan tâm mà họ xứng đáng có được. Buổi triển lãm năm 2016 của Bảo tàng Nghệ thuật Denver “Những người phụ nữ của chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng” đã tôn vinh những nữ nghệ sĩ thường không được biết đến hoặc không được đánh giá cao của phong trào nghệ thuật đột phá này.
Lee Krasner, Portrait in Green, 1969. Phòng trưng bày Courtesy Kasmin, New York