Auld Lang Syne Bản gốc của bài hát đã được một nhà thơ Scotland tên là Robert Burns gửi cho một người bạn là bà Agnes Dunlop. Ông nói rằng: “Bài hát này có nhiều ý nghĩa hơn nửa tá bài hát lễ hội tiếng Anh hiện đại cộng lại”.
Năm năm sau, ông gửi bài hát cho James Johnson, người đang biên tập một cuốn sách về các bài hát cổ Scotland mang tên “Bảo tàng Âm nhạc Scotland”. Ông nói thêm: “Bài hát sau đây, một bài hát cổ thuộc thời xưa cũ và chưa từng được in trước đây, chưa từng có trong một bản thảo cho tới khi tôi chép lại lời từ một cụ già”.
Ngày nay, chúng ta coi bài hát này là của tác giả Robert Burns sáng tác năm 1788 nhưng thực ra đó không phải là do ông sáng tác, mà chỉ chép lại lời như đã nói ở trên. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng phần sau bài hát là do Robert Burns sáng tác.
Auld Lang Syne nói về việc duy trì những mối quan hệ cũ và nhìn lại những sự kiện đã diễn ra trong năm qua. Bài hát gợi cho ta cảm giác bằng hữu thân thiết và một chút hoài cổ.
Người góp phần khiến bài hát nổi tiếng là thủ lĩnh một ban nhạc người Mỹ gốc Canada tên là Guy Lombardo. Bài hát qua giọng ca của Lombardo được bật vào đêm giao thừa hàng năm ở Quảng trường Thời đại, New York, nơi hàng nghìn người tập trung vào ngày 31/12 hàng năm để “tống cựu nghênh tân”.
Nghe ca khúc Auld Lang Syne qua giọng ca Lombardo năm 1947 (nguồn: YouTube):
Bài hát thường được sử dụng để nói lời tạm biệt với năm cũ vào thời điểm giao thừa. Tiêu đề tiếng Scotland của bài thơ có thể được dịch sang tiếng Anh chuẩn là “old long since” hay “the good old days (những ngày tươi đẹp đã qua). Cụm từ “Auld Lang Syne” cũng được sử dụng trong các bài thơ tương tự của nhiều nhà thơ trước thời Robert Burns.
Hát bài hát này vào đêm giao thừa đã nhanh chóng trở thành một phong tục của người Scotland. Mọi người nắm tay nhau tạo thành một vòng tròn lớn và hát bài hát. Khi tới câu đầu tiên của khổ cuối, mọi người bắt chéo tay lên ngực để tay phải nắm vào tay trái người bên cạnh và ngược lại. Khi giai điệu bài hát kết thúc, mọi người sẽ ào vào giữa vòng tròn mà vẫn nắm tay nhau. Khi vòng tròn được thiết lập lại, mọi người luồn xuống dưới cánh tay và quay ngược lại, hướng mặt ra ngoài trong khi vẫn nắm tay nhau.
Không chỉ phổ biến ở Scotland, bài hát Auld Lang Syne chẳng mấy chốc nổi tiếng trong các khu vực khác của Vương quốc Anh. Khi người Scotland di cư khắp thế giới, họ mang theo bài hát này và giới thiệu khắp nơi. Ở các khu vực khác, người ta đặt chéo tay lên ngực ngay từ đầu bài hát. Thế nên, năm 2000, khi Nữ hoàng Anh “quên” bắt chéo tay trước khi nắm tay hai người bên cạnh, bà đã làm theo phong tục của người Scotland.
Ngoài ra, bài hát còn được hát trong các lễ tang, lễ tốt nghiệp hoặc được hát để nói lời chia tay hay chấm dứt một sự kiện nào đó hoặc mở màn một sự kiện.
Sự nổi tiếng toàn cầu và tầm quan trọng đặc biệt của bài Auld Lang Syne được thể hiện trong sự kiện đình chiến vào dịp Giáng sinh đầu Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, tiếng súng ngừng vang, binh sĩ hai bên rời chiến hào để trao nhau quà lưu niệm và ca hát.
Auld Lang Syne đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và xuất hiện ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Á khác. Theo Wikipedia, cùng điệu nhạc này, người Việt hát theo lời sau đây vào những lúc kết thúc buổi sinh hoạt tập thể như trại hè: “Giờ đây anh em chúng ta cùng nhau giã từ lòng còn lưu luyến/Cách xa nhưng ta hằng mong rồi đây có ngày còn được gặp nhau”.
Ở Ấn Độ và Bangladesh, giai điệu là nguồn cảm hứng trực tiếp cho bài dân ca nổi tiếng Bengali của nhà thơ Tagore.
Ở Đan Mạch, bài hát được nhà thơ nổi tiếng Jeppe Aakjer dịch năm 1927. Ban nhạc rock Đan Mạch Gasolin đã hiện đại hóa giai điệu năm 1974 với ca khúc pop ballad Stakkels Jim.
Ở Hà Lan, giai điệu phổ biến dưới dạng bài hát cổ vũ bóng đá “Wij houden van Oranje” (Chúng tôi yêu Da cam).