Theo Bệnh viện Y học cổ truyền Đà Nẵng, vả là loại cây có nguồn gốc từ Đông Dương và Ấn Độ, thường mọc hoang và đôi khi được trồng làm cảnh để lấy quả ăn và làm thuốc. Vả còn được gọi là sung không trái hay sung tử vì nó có một đặc điểm rất đặc biệt là trên cành có nhiều trái nhưng không có hoa.
Bộ phận làm thuốc của cây vả. Bao gồm nhựa, lá và vỏ cây. Thu hái quanh năm, nhựa cây dùng tươi, lá và vỏ dùng phơi khô.
Y văn cổ truyền ghi chép, quả sung có vị ngọt hơi cay, tính mát, có tác dụng thông huyết, trừ huyết ứ, cầm tiêu chảy, lợi tiểu, tiêu thũng, tiêu viêm, tiêu thũng. dưỡng huyết. Nhựa sung, lá sung, vỏ sung đều có nhiều công dụng hữu ích trong việc chữa bệnh.
Cây thông chữa mụn nhọt, ban, tụ máu, chốc lở, sưng đau. Phương pháp điều trị là rửa chỗ mụn nhọt sưng đau, lau khô nước, lấy nước cốt quả sung bôi trực tiếp lên chỗ sưng đỏ, ngày 2 lần. Nhựa vả cũng có thể được trộn với lá vả non nghiền nát để bôi ngoài da. Đối với mụn chưa có mủ thì đắp lên, nếu mụn đã vỡ mủ thì bôi lên miệng. Nếu muốn trị mụn, hãy nghiền một củ hành tây trộn với nhựa cây và lá sung, đắp như trên. Che núm vú của bạn nếu ngực của bạn bị căng sữa. Khi bị ngã và trầy xước thì bôi thuốc và để vết thương.
Nhựa sung còn chữa được bệnh đau đầu, lấy nhựa sung thấm vào giấy rồi dán vào thái dương. Có khi phối hợp bôi ngoài, ăn lá sung non hoặc uống nước sắc sung (5ml) pha với nước sôi để nguội. Để điều trị bệnh hen suyễn, hãy lấy bơ vả trộn với mật ong và uống trước khi đi ngủ.
Dùng lá vối, người ta thường dùng lá vối phơi khô sao vàng, nghiền thành bột mịn, trộn với mỡ heo, đắp lên vết bỏng. Ngoài ra, lá vối còn có tác dụng tiết prolactin: lá vối 100 gam, 1 cái đùi lợn, mít non (đã bỏ vỏ) 5 gam, quả đu đủ non 50 gam, lá thông 10 gam, hạt mã đề 5 gam (để sống). dùng), tất cả băm nhỏ lấy 100 gam Gạo nếp nấu thành cháo mềm, ngày ăn 1 hoặc 2 lần, ăn liền 2 đến 3 ngày. Đối với những người lưng và ngực có khối u nhỏ, kèm theo sốt đau nhức, theo bài thuốc: lá sung 40 gam, hắc sâm 20 gam, kê huyết đằng 20 gam, ngưu tất 20 gam. Tất cả thái nhỏ, sắc với 400ml nước sắc còn 100ml, chia 2 lần. Để chữa các chứng sưng đỏ ở mặt như đào nhân, hạnh nhân… lấy lá vối sắc lấy nước rửa hàng ngày.
Lá mễ còn được bổ sung trong các vị thuốc sau: lá sung 200 gam, củ mài của lá sung 100 gam, hạt sen 100 gam, nhân sâm 100 gam, thục địa 100 gam, thục địa 100 gam cá nóc đỏ, táo nhân 100 gam, ngải cứu 100 gam. Cụ thể, lá sung được phơi khô trong bóng râm rồi nghiền thành bột. Củ nấu chín, sao vàng sấy khô, dạng bột. Hạt sen và nhân sâm phơi khô, nghiền thành bột. Thục địa ngâm nước gừng, giã nhỏ sao thơm. Hà thủ ô đỏ ngâm trong nước đậu đen rồi nghiền mịn thành bột. Táo nhân sao đen, tán thành bột. Lá mơ tươi chín, chắt bỏ nước. Trộn đều tất cả, thêm mật ong và viên thành những viên bằng hạt ngô. Người lớn mỗi lần uống 8-10 viên, trẻ em tùy theo tuổi uống mỗi lần 2-6 viên, ngày 2 lần.
Vỏ cây vả cũng có nhiều dược tính. Dân gian thường lấy vỏ quả sung (20g) cạo sạch lớp bẩn bên ngoài rồi thái thành lát mỏng, phơi khô với ức bò (20g, tẩm mật ong sao vàng) sắc uống, có tác dụng chữa sốt rét, phong thấp và sản phụ. . Tăng tiết sữa ở phụ nữ sau sinh.
* Mời quý độc giả đón xem các chương trình do Người Việt TV Online phát sóng!
.