Chiếu chỉ là văn bản do hoàng đế ban hành cho thần dân của mình, để tìm hiểu thêm những thông tin hữu ích về Chiếu là gì? Tác phẩm thể loại chiếu? Đặc điểm của thể loại chiếu? Mời bạn đọc tham khảo bài viết dưới đây.
1. Chiếu là gì?
Chiếu hay còn được gọi là chỉ dụ, sắc lệnh của hoàng đế trong thời kỳ phong kiến. Đây là văn bản do hoàng đế ban hành để công bố cho thần dân của mình.
詔書 zhào shū ký hiệu phiên âm ㄓㄠˋ ㄕㄨ Bính âm zhào shū
Chiếu ý nghĩa của thông báo, chủ yếu được sử dụng cho trên và dưới. Vào thời tiền Tần, mệnh lệnh của cấp trên đối với cấp dưới được gọi là chiếu. Nội dung của chiếu chỉ khá phong phú, nói chung mỗi khi triều đình cử hành đại sự, triều chính thay đổi, hoặc hoàng thất hỷ sự, bổ nhiệm, cách chức v.v…, hoàng đế nhất định phải ban hành một chiếu gọi là chiếu.
Chiếu là vật trưng bày và biểu tượng quyền lực của các hoàng đế Trung Quốc cổ đại, chuôi cán được phân biệt nghiêm ngặt theo cấp bậc quan chức: cấp một là trục ngọc, cấp hai là trục sừng tê giác đen, cấp ba là một cây gậy vàng, và bậc thứ tư và thứ năm là sừng đen trục. Chất liệu của chiếu chỉ rất tinh xảo, tất cả đều là vải gấm làm từ lụa tơ tằm cao cấp, hoa văn chủ yếu là mây lành hạc, rất hoa lệ.
Có những con rồng bạc đang bay ở cả hai đầu của chiếu chỉ hoàng gia như một biểu tượng chống hàng giả. Vì các văn bản và mệnh lệnh của hoàng đế các triều đại trước đây và các chiếu hoặc chiếu ban hành bằng cách phong tặng các quan chức có công hoặc ban sắc phong, chiếu của triều đình càng phong phú thì quan chức nhận được sắc phong càng cao.
2. Lịch sử của Chiếu:
Chiếu chỉ (zhào shū) là văn bản mà hoàng đế công bố cho các thần dân trên đất nước. Trong triều đại nhà Chu, các hoàng đế và các đại quan có thể sử dụng các chiếu của hoàng gia. Sau khi Tần Vương Chính thống nhất lục quốc, thành lập một quốc gia quân chủ, ông cho rằng “tam hoàng có đức, ngũ hoàng có công cao nhất”, xưng đế, tự xưng là Chân. Và đổi mệnh lệnh thành hệ thống, mệnh lệnh thành chiếu, từ đó sắc dụ trở thành văn tự đặc biệt để hoàng đế ban bố cho thần dân.
Từ Ngụy Tấn Nam Bắc Triều đến Tùy, hệ, chiếu, điển, tấu đều trở thành tên ngôn ngữ cố định, mãi đến năm Vũ Hầu Thiên Thọ đầu tiên của nhà Đường (690 SCN) mới có chiếu chỉ. đã được thay đổi thành hệ thống để tránh những điều cấm kỵ.
Vào thời nhà Đường và nhà Tống, chiếu chỉ thường được sử dụng cho các sự kiện quan trọng như hoàng đế lên ngôi, tuyên bố đại xá và di chúc cuối cùng của hoàng đế; chiếu dụ cũng được dùng để trả lời các câu hỏi của quan lại, và một số gọi những chiếu như vậy là trả lời. Vào thời điểm này, các chiếu hay chiếu quan trọng của triều đình hoàng gia đều do các học giả của Học viện Hoàng gia trực thuộc nội triều soạn thảo, được gọi là hệ thống nội chính.
Từ nhà Ngụy và nhà Tấn cho đến nhà Nguyên, các văn bản chiếu của mỗi thế hệ đều phải được các đại quan xem xét và ký tên, sau đó được ban hành bởi cơ quan hành chính cao nhất. Trong thời Nam Bắc triều, chiếu ân xá được tuyên bố và một buổi lễ lớn được tổ chức. Trong thời Nam Bắc triều, sắc lệnh ân xá được tuyên bố và một buổi lễ lớn được tổ chức. Vào năm đầu tiên (690) của Hoàng đế nhà Đường, sắc lệnh đã được thay đổi thành hệ thống do những điều cấm kỵ .Chiếu của nhà Đường ban hành cho các thần dân trong cả nước, yêu cầu các quan địa phương phải công bố danh sách để thông báo cho người dân. Nhà Tống cũng kế thừa hệ thống Đường, nhưng nó được gọi là chiếu hoàng gia. Mặc dù các triều đại nhà Minh và nhà Thanh về cơ bản sử dụng tên của các triều đại trước, nhưng đã có những thay đổi đáng kể trong cách sử dụng so với các triều đại trước. Bất cứ khi nào các sự kiện lớn xảy ra trong triều đại nhà Thanh, các chiếu của hoàng gia đều được ban hành dưới danh nghĩa của hoàng đế để cho thần dân biết. Hoàng đế khi lên ngôi ban hành chiếu chỉ ủng hộ chính phủ; hoàng đế cảnh cáo quần thần và quần thần khi sắp chết và ban hành chiếu; các công việc quốc sự trọng đại của đất nước như cải cách và thiết lập hiến pháp thì ban hành chiếu cải cách và chiếu hiến pháp. Hình thức của sắc lệnh hoàng gia: bắt đầu bằng “Phượng Thiên Thành Vân, chiếu chỉ của hoàng đế”, tiếp theo là lý do của chiếu chỉ, cuối cùng kết thúc bằng “Tuyên bố cả nước để mọi người biết” hoặc “Thông báo Trung Quốc và nước ngoài , để mọi người biết”. Cuối văn bản ghi năm, tháng, ngày của chiếu chỉ ban hành và đóng ấn “Bảo vật của hoàng đế”.
Vào thời nhà Thanh, chiếu chỉ phải được đọc ở quảng trường Thiên An Môn, sau đó được dẫn đến Bộ Lễ có đội cận vệ danh dự, Bộ Lễ sẽ in một bản, gọi là bản sao, sau đó phân phát cho các nha môn trong và ngoài thành . Các tỉnh cũng tổ chức một buổi lễ lớn để nhận các bản sao màu vàng, sau đó xuất bản lại các bản sao và phân phát chúng cho ccá huyện của họ để đọc và treo.
Như vậy Chiếu là một loại văn bản hành chính đã xuất hiện ở Trung Quốc từ thời nhà Hán và được truyền sang nhiều nước, trong đó có Việt Nam.
3. Đặc điểm của thể loại chiếu:
Chiếu bên cạnh là một loại hình văn bản hành chính của nhà nước thời kì Trung đại mà còn là một thể văn học loại phục vụ cho việc giao tiếp có tính quan liêu. Tùy vào mỗi triều đại, văn bản chiếu có những đặc điểm riêng phù hợp với từng thời kì đó.
Về cơ bản, đặc trưng của thể loại chiếu là, xét về nội dung là chỉ dụ, sắc lệnh của hoàng đế trong thời kỳ phong kiến để công bố cho thần dân của mình; về hình thức thì đó là sự áp dụng phổ biến các cách diễn đạt của văn xuôi cổ thể, của vận văn và cả của biền văn, tản văn nữa, trong đó hình thức phổ biến nhất là biền văn. Từ ngữ được sử dụng trong văn chiếu cũng rất đa dạng, phong phú. Điều này nhằm phù hợp với mục đích sử dụng của văn chiếu: vừa đảm bảo tính bác học vừa đảm bảo tính phổ cập, vì phải để mọi tầng lớp nhân dân đều có thể hiểu được.
Nội dung của chiếu tương đối phức tạp, liên quan đến cả đối nội và đối ngoại, độ dài của loại chiếu nhìn chung tương đối ngắn, chức năng mang tính mục tiêu cao, có tính áp dụng phổ biến, ban hành theo thời điểm, có tính chất tính chất chương trình mạnh mẽ cho các quan lại, và là tiêu chuẩn để thực hiện mệnh lệnh của hoàng đế. Ví dụ về nội dung có thể kể đến như Chiêu dụ người tài, bãi bỏ chính sách thời chiến “chiêu mộ tướng sĩ, treo thưởng mua binh”, chiếu chỉ về quốc sự tiêu biểu như Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn.
4. Tác phẩm thể loại chiếu:
Bảng thống kê số lượng chiếu các thời trong lịch sử Việt Nam
Stt
Tên nguồn tư liệu
Số lượng chiếu
Lý
Trần
Lê
Nguyễn
1
Đại Việt sử kí toàn thư
24
23
56
0
2
Đại Nam thực lục
0
0
0
191
3
Nguyễn Trãi toàn tập
0
0
6
0
4
Tổng tập văn học Việt Nam
0
0
0
0
5
Thơ văn Lý Trần
6
0
0
0
Tổng
30
23
56
191
Nhà Nguyễn là thời kì có số lượng văn bản chiếu nhiều nhất bởi lí do khách quan về thời gian, chiến tranh và cũng do thời gian đã lâu nên việc thống kê chiếu các thời Lí, Trần, Lê đã không được đầy đủ
5. Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn:
Lý Công Uẩn sinh năm 974, quê ở làng Cổ Pháp (nay thuộc Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh, nổi tiếng với đền Lý Bát Đế thờ 8 vị vua nhà Lý). Tương truyền, Lý Công Uẩn mồ côi cha, được Thái sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi. Lý Công Uẩn thông minh, được sư Vạn Hạnh đánh giá cao: “Ông ấy không phải là người tầm thường. Sau khi lớn lên, anh ấy có thể giải quyết mọi khó khăn và trở thành lãnh chúa trong nước.
Sau khi lên ngôi, Lý Thái Tổ nhận thấy đất Hoa Lư đất hẹp, núi non bao bọc, không xứng đáng là kinh đô của một quốc gia độc lập; xây dựng một đất nước thịnh vượng đã khó hơn. Vua nghĩ đến việc dời đô. Xem xét các nơi trong cả nước, Lý Thái Tổ nhận thấy chỉ có Đại La là nơi thích hợp nhất để định đô. Sau đó, ông soạn Chiếu dời đô nổi tiếng để hỏi ý kiến các quan. Vua và các quan thống nhất dời đô từ Hoa Lư về Đại La.
Mùa thu năm 1010, thuyền của nhà vua cập bến thành Đại La. Vào thời điểm đó, theo truyền thuyết, nhà vua nhìn thấy một con rồng vàng bay lên. Sau đó đổi tên Đại La thành Thăng Long.
Tầm nhìn chiến lược trong việc chọn nơi định đô còn nguyên giá trị suốt gần 1000 năm qua, khiến Lý Thái Tổ trở thành vị vua sáng giá nhất trong các vị vua tài ba trong lịch sử phong kiến của nước nhà.