Chuẩn mực đạo đức là tổng hợp các quy tắc, yêu cầu đối với hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh sự và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội. Đạo đức xã hội không chỉ phụ thuộc vào cơ sở kinh tế trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định mà còn phụ thuộc vào quan niệm và ý chí của giai cấp thống trị. Trong khuôn khổ bài viết này, đội ngũ các luật sư, chuyên gia của công ty Luật Dương Gia sẽ đi sâu trình bày, giới thiệu khái niệm và các hình thức biểu hiện của chuẩn mực đạo đức.
1. Chuẩn mực đạo đức là gì?
Chuẩn mực đạo đức là tổng hợp các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm đảm bảo sự ổn định, giữ gìn trật tự, kỉ cương của xã hội. Trong cuộc sống xã hội thường ngày, con người (các cá nhân và nhóm xã hội) thường xuyên thực hiện các hành vi xã hội nào đó nhằm đạt được hoặc thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích nhất định.
Hành vi của họ thường được định hướng và tuân theo những quy tắc, yêu cầu xã hội nào đó. Mọi người mong đợi họ hành động phải như thế này mà không nên như thế khác: Hãy kính trên nhường dưới, hãy ăn mặc gọn gàng, lịch sự, hãy cầu nguyện Thánh Ala, hãy tôn trọng pháp luật, không được gây tội ác… Vì thế, trong xã hội xuất hiện nhu cầu phải có những phương tiện để điều chỉnh hành vi của con người.
Chính con người đã xác lập và tạo dựng hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với hành vi của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội. Từ đó mà hình thành và xuất hiện trong xã hội hệ thống các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội. Chúng tham gia và phát huy tác dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống.
Dù chuẩn mực đạo đức là bất thành văn nhưng chúng đều là phương tiện định hướng, điều chỉnh các hành vi của cá nhân và các nhóm xã hội trong những điều kiện xã hội nhất định đồng thời là phương tiện kiểm tra xã hội đối với các hành vi của họ. Nhờ có các chuẩn mực đạo đức mà các cá nhân luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểm nghiệm trước khi thực hiện hành vi xã hội nào đó: Hành vi đó đúng hay sai? Phù hợp hay không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội? Nếu thực hiện thì có bị xã hội phê phán, lên án hoặc trừng phạt không? Qua đó, chuẩn mực đạo đức góp phần ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi sai trái, phạm pháp và tội phạm.
Điều đó có nghĩa là, tùy thuộc vào các đặc điểm, tính chất về mặt nhu cầu, lợi ích vật chất hay tinh thần của đối tượng (nhóm đối tượng) xã hội nào, trong phạm vi không gian xã hội nào và vào thời điểm, giai đoạn lịch sự nào, mà các chuẩn mực đạo đức thường được định hướng sao cho phù hợp với thực tế xã hội hoặc phù hợp với lợi ích của đối tượng này hay đối tượng khác, của giai cấp này hay giai cấp khác. Các chuẩn mực đạo đức không mang tính chất bất biến mà thường ở trong trạng thái động. Chúng thường xuyên vận động, biến đổi và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người.
Trong quá trình vận động đó, có những quy tắc, chuẩn mực đạo đức dần trở nên lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế xã hội ở giai đoạn lịch sử nhất định. Khi đó chúng sẽ bị loại bỏ hoặc được thay thế bằng những chuẩn mực đạo đức mới phù hợp hơn, tiến bộ hơn tùy theo từng thời kỳ lịch sử nhất định. Ví dụ đối với những phong tục, tập quán đã lạc hậu, lỗi thời, đã trở thành hủ tục, mang màu sắc mê tín dị đoạn thì cần phải vận động, tuyên truyền nhằm loại trừ chúng ra khỏi đời sống của cộng đồng, xây dựng lối sống văn minh, tiến bộ.
Xem thêm: Mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức
2. Các hình thức biểu hiện của chuẩn mực đạo đức:
Thông thường, chuẩn mực xã hội được biểu hiện dưới hai hình thức: Chuẩn mực xã hội thành văn và chuẩn mực xã hội không thành văn.
Chuẩn mực xã hội thành văn là loại chuẩn mực xã hội mà các quy tắc, quy chuẩn của nó được phản ánh, phân loại và ghi chép một cách tương đối cụ thể thành văn bản. Chuẩn mực xã hội thành văn biểu hiện ở 3 dạng cụ thể là chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực chính trị và chuẩn mực tôn giáo.
Chuẩn mực xã hội bất thành văn là những loại chuẩn mực xã hội không thể hiện dưới dạng hình thức văn bản. Chúng chủ yếu tồn tại và phát huy vai trò, hiệu lực của mình bằng con đường giáo dục truyền miệng và được củng cố, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chuẩn mực xã hội bất thành văn được biểu hiện ở 3 dạng cụ thể là chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục – tập quán và chuẩn mực thẩm mĩ.
Trong thực tế, không phải các chuẩn mực xã hội luôn luôn được tôn trọng, tuân thủ mà còn thường xảy ra các hành vi của cá nhân, nhóm xã hội vi phạm, phá vỡ hiệu lực, tính ổn định, sự tác động của các loại chuẩn mực xã hội. Đó chính là các hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội. Với khái niệm chuẩn mực đạo đức là tổng hợp các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm bảo đảm sự ổn định, giữ gìn trật tự, kỷ cương của xã hội cùng với hiện diện là một loại của chuẩn mực xã hội, chuẩn mực đạo đức được tồn tại và phát triển dưới các hình thức sau:
2.1. Giá trị đạo đức:
Giá trị đạo đức rất phong phú và đa dạng, thường được thể hiện ra trong nền nếp giao tiếp, ứng xử giữa mọi người, trong các sinh hoạt văn hóa – văn nghệ dân gian, ngày hội cổ truyền, nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng hoặc trong sản xuất, sinh hoạt… Giá trị đạo đức được coi là các phương tiện xã hội hóa các cá nhân, lưu truyền những kinh nghiệm quý báu về văn hóa, lối sống, sản xuất từ thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần củng cố khối đoàn kết bên trong cộng đồng xã hội. Khi nghiên cứu những giá trị đạo đức trong xã hội, đòi hỏi mỗi người chúng ta cần nhận thức một cách sâu sắc đối với những giá trị đạo đức qua nhiều khía cạnh.
Nó củng cố các hành vi, thể hiện những mối liên hệ xã hội và các quan hệ xã hội điển hình, hành vi tiêu biểu cho đa số đại biểu của một giai cấp hay nhóm xã hội nhất định, được họ tán thành và thực hiện. Ở nước ta hiện nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường cùng với quá trình dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề đang đặt ra, trong đó có vấn đề nhận thức, hiểu biết và thực hiện các nguyên tắc, quy định của giá trị đạo đức nói riêng và chuẩn mực xã hội nói chung.
Tình trạng gia tăng các vụ việc vi phạm pháp luật, diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm, sự lãng quên các giá trị truyền thống, sự lãnh đạm trong giao tiếp xã hội là những vấn đề hết sức đáng lo ngại. Trong điều kiện như vậy, việc nghiên cứu, củng cố và phát huy vai trò, hiệu lực của các giá trị đạo đức càng có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.
2.2. Những bài học về luân thường đạo lý:
Những bài học về luân thường đạo lý có giá trị truyền thống, mang tính nhân văn sâu sắc đã trở thành thuần phong mỹ tục, quy tắc xử sự của cộng đồng thì cần củng cố, giữ gìn và phát huy vai trò của chúng trong đời sống xã hội. Những bài học về luân thường đạo lý là hệ thống những quy tắc, yêu cầu về mặt thẩm mỹ đối với hành vi xã hội của con người, tuân theo những quan điểm, quan niệm đang được thừa nhận rộng rãi trong xã hội về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái anh hùng, cái tuyệt vời,… trong các mối quan hệ thẩm mĩ, trong hoạt động sáng tạo văn hóa – nghệ thuật, trong lối sống và sinh hoạt… của con người. Nó được hình thành từ chính những nhu cầu của hệ thống các quan hệ xã hội trong xã hội.
Chúng được tạo thành bởi chính các thành viên của xã hội, của các nhóm xã hội, của các giai cấp, nhằm củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu, lợi ích của họ. Chính vì vậy, sự xuất hiện, tồn tại và phát huy vai trò, hiệu lực của những bài học về luân thường đạo lý trong đời sống xã hội hàng ngày được coi là khách quan và mang tính yếu xã hội. Bên cạnh đó, những bài học về luân thường đạo lý còn mang tính lợi ích và tính bắt buộc thực hiện, nghĩa là mọi thành viên của cộng đồng xã hội dù muốn hay không đều phải tuân theo các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội.
2.3. Phép đối nhân xử thế:
Tùy thuộc vào tính chất của từng loại quan hệ giữa con người với nhau, phép đối nhân xử thế quy định cho những thành viên của nó những điều cần phải làm, điều được phép, điều có thể, điều bị ngăn cấm trong các hành vi xã hội của họ. Qua đó, phép đối nhân xử thế thực hiện chức năng hợp nhất, tập trung ủng hộ các quá trình hoạt động của xã hội như hệ thống các tương tác xã hội giữa các cá nhân và các nhóm xã hội. Phép đối nhân xử thế là yếu tố không thể thiếu được trong hoạt động quản lý các mặt, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Sự tuân thủ và thực hiện các quy tắc, yêu cầu của phép đối nhân xử thế trong hành vi xã hội của mỗi người được coi là trách nhiệm, bổ phận, nghĩa vụ của người đó. Nếu đi chệch ra khỏi quỹ đạo chung đó, hành vi của anh ta sẽ là bất bình thường, sẽ là lệch lạc, là tội ác… Khi đó, anh ta phải bị xã hội lên án, phê phán hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt.