Một vấn đề quan trọng trong thực hiện Performance/Load Test là việc ghi nhận lại giá trị của các thông số đặc trưng trong quá trình test. Các thông số đó nói lên tình trạng của hệ thống khi đáp ứng tải, ví dụ %CPU active, idle; hay Memory – Physical/Virtual available v.v… Do đó, trong bất cứ tool nào về Load/Performance Test đều cung cấp khái niệm về counter, tức là các bộ đếm để ghi nhận lại các giá trị sau này sẽ sử dụng để phân tích và đánh giá hệ thống. Threshold là những giá trị ngưỡng, sử dụng để so sánh giá trị thực nhận được với chúng để đưa ra những tính toán xác định hệ thống có vấn đề hay không đối với giá trị thông số mà ta đang xét.
VS Team System Test Edition cung cấp các hiện thực cho khái niệm trên như sau:
Counter Set: là tập các bộ đếm (performance counter) mà chúng ta cần tham khảo tới trong quá trình thực hiện test. Các tập bộ đếm này đựơc coi là một thành phần của Load Test và chúng đựơc áp dụng cho toàn bộ các kịch bản (scenarios) dùng để test. Phần mềm cũng cung cấp sẵn các counter sets đã đựơc xây dựng dựa vào kỹ thuật đặc trưng của công nghệ đó, ví dụ: ASP.NET counter set, SQL counter set. Ngừơi dùng cũng có thể đưa vào một counter cần thiết được lựa chọn sau đó vào counter set có trước.
Một thuộc tính đi kèm counter set mà chúng ta cũng cần lưu ý để config là interval (khoảng thời gian giữa hai lần lấy dữ liệu). Dữ liệu đựơc đo lường sẽ được thu thập dựa trên giá trị interval do người dùng chỉ định trước. Tùy theo mục đích và yêu cầu của việc, ta cần lấy giá trị interval này sao cho phù hợp đủ để có thể nhận biết được problem xảy ra, và số liệu xử lý vửa đủ không quá nhiều. Interval càng lớn, số liệu lấy đựơc ít đi thì khả năng nhận biết problem xảy ra trong khoảng interval cũng theo đó giảm đi và khó phát hiện.
Threshold Rule: Quy luật ngưỡng/tới hạn là quy luật được thiết lập cho 1 counter riêng biệt để theo dõi tài nguyên hệ thống trong quá trình làm test. Cái này cũng tương tự như ngưỡng level trong thang đánh giá performance của nhân viên vậy. VS Team System Test Edition cung cấp 2 loại rule: Cái thứ nhất là Compare Constant, tức là ngưỡng đựơc gán một giá trị là hằng số (một ví dụ đơn giản cho trường hợp này là thời gian truy xuất trang không được vượt quá 10s). Cái thứ hai là Compare Counters, tức là ngưỡng lại là giá trị của các performance counter khác.
Threshold lại có 2 loại: 1 là loại ở mức báo động (warning threshold), cái còn lại là ở mức nghiêm trọng (critical threshold).
Một thuộc tính quan trọng của threshold rule cần quan tâm để config cho đúng là Alert If Over. Giá trị này nếu được set là True thì khi bộ đếm thu thập đựơc giá trị lớn hơn ngưỡng, đó sẽ là một problem. Ví dụ, muốn set để hệ thống báo động problem là critical xảy ra khi % thời gian sử dụng (active) của CPU lớn hơn 90 thì ta phải set: Counter set = % Processor Time, Threshold rule type = Compare Constant, Critical Threshold value = 90, và Alert If Over = True.
Ngược lại khi thiết lập Alert If Over bằng False thì hệ thống sẽ báo là một problem nếu giá trị thu thập đựơc của bộ đếm thấp hơn giá trị ngưỡng. VÍ dụ, muốn hệ thống báo động problem là critical xảy ra khi số lượng request trên giây nhỏ hơn 50 thì ta phải set:Counter set = Requests/Sec, Threshold rule type = Compare Constant, Critical Threshold value = 50, và Alert If Over = False.
Threshold Rule Violations: Các problem do counter ghi nhận dựa trên các set up trên của người sử dụng sẽ đựơc lưu trữ trong 1 bảng gọi là Threshold Violations Table. Phân tích bảng này, chúng ta có thể biết đựơc problem nảy sinh ở dâu.