Việt Nam là một trong những quốc gia có số lượng các dân tộc khác nhau trên lãnh thổ nhiều nhất trên thế giới. Tuy phần trăm chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng các dân tộc thiểu số lại là những người lưu giữ bản sắc dân tộc truyền thống độc đáo nhất.
1. Dân tộc thiểu số là gì?
Dân tộc thiểu số trong tiếng anh là Ethnic minority
Xem thêm: Dân tộc là gì? Phân tích những đặc trưng cơ bản của dân tộc?
2. Các đặc trưng của dân tộc thiểu số:
– Địa bàn sinh sống
Đồng bào các DTTS thường tập trung vào các vùng núi và vùng sâu vùng xa, tuy nhiên họ cũng phân bố rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam do chiến tranh và nhập cư. Các DTTS sinh sống ở khu vực thành thị thường sung túc hơn các DTTS sống ở khu vực nông thôn. Nhiều làng, xã có tới 3-4 DTTS khác nhau cùng sinh sống. Vị trí địa lý đóng một vai trò quan trọng trong các tập tục văn hóa của các DTTS, song cũng đồng thời tạo ra những rào cản trong việc tiếp cận cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công như y tế và giáo dục.
Khả năng tiếp cận cơ sở vật chất cơ bản tại những địa bàn người DTTS sinh sống chủ yếu vẫn còn hạn chế. 72% DTTS không có nhà vệ sinh đạt chuẩn, và hơn ¼ số hộ DTTS không được tiếp cận với nguồn nước hợp vệ sinh.Tỉ lệ hộ có điện sinh hoạt tương đối cao ở Việt Nam, tuy nhiên phần lớn các hộ sinh sống tại khu vực nông thôn và vùng núi chưa được sử dụng điện lưới, gây nên tình trạng mất cân đối trong đời sống đồng bào DTTS.
Tuy còn thiếu thốn về điều kiện giáo dục so với đồng bào Kinh, các DTTS đều có đại diện với vai trò cán bộ và công chức trong các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp tỉnh và thành phố. Tuy nhiên, trình độ văn hóa, đặc biệt là tỷ lệ biết chữ có khác biệt lớn giữa các nhóm DTTS. Tỷ lệ trung bình cho 53 DTTS là 79,8%, tuy nhiên con số này biến thiên từ mức thấp nhất là 34,6% với dân tộc La Hủ, tới cao nhất là các dân tộc Thổ, Mường, Tày và Sán Dìu đạt 95%. Tỷ lệ người lao động là DTTS đã qua đào tạo bằng 1/3 của cả nước.
Một trong những rào cản của giáo dục ở vùng cao chính là khoảng cách địa lý. Nhiều học sinh người DTTS phải đi một quãng đường xa để tới trường phổ thông, thường rơi vào khoảng từ 9 km thậm chí lên tới 70 km, Thêm vào đó, người được đi học chủ yếu vẫn là nam giới, do tư tưởng lỗi thời “trọng nam khinh nữ” vẫn còn tồn tại ở đồng bào DTTS.
– Văn hóa, sinh kế, đất đai
Tuy các DTTS có sự khác biệt với nhau về phong tục tập quán, rừng vẫn đóng vai trò quan trọng với phần lớn các DTTS. Người Mông, Thái, Dao đỏ, Vân Kiều, Ja Rai, Ê Đê, và Ba Na sinh sống trên nhiều tỉnh thành trên cả nước vẫn nương tựa vào rừng cộng đồng. Họ có những khu rừng thiêng phục vụ mục đích về tâm linh tín ngưỡng cũng như người Kinh có đền thờ và nhà thờ dòng họ. Luật tục cũng quy định những khu rừng đầu nguồn, rừng nguồn nước nơi người dân thờ Thần Nước. Ngoài ra còn có các khu rừng khai thác sản phẩm chung của cả làng bản, ví dụ như dược liệu, củi, và vật liệu để làm đồ thủ công. Hình thức quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong phong tục tập quán cũng như sinh kế của các DTTS tại Việt Nam. Dưới đây là phim tài liệu về Người H’Mông và lễ cúng các vị thần rừng tại Xã Sín Chéng, Huyện Simacai, Tỉnh Lào Cai do Trung tâm Tư vấn Quản lý Bền vững Tài nguyên và Phát triển Văn hóa Cộng đồng Đông Nam Á (CIRUM) biên tập.
Ngoài sản xuất lâm nghiệp, sản xuất nông nghiệp là sinh kế với nhiều DTTS. Cả hai hình thức canh tác lâm nghiệp và nông nghiệp đều cần có đất. Tuy nhiên các DTTS vẫn còn gặp nhiều khó khăn về quyền đất đai để duy trì hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hóa. Trong nỗ lực bảo vệ sinh kế và khuyến khích bảo vệ môi trường, một số cộng đồng đã được chính phủ giao đất để họ tiếp tục quản lý rừng truyền thống theo cộng đồng. Tuy nhiên việc làm này chưa được phổ biến rộng rãi. Năm 2015, chỉ có 26% tổng diện tích đất rừng được giao cho các hộ, và chỉ có 2% được giao cho cộng đồng quản lý. Thêm vào đó, mặc dù Luật Đất đai thừa nhận quyền sở hữu đất đai theo luật tục, đất đai phần lớn vẫn thuộc sự quản lý của Chính phủ, và Luật Dân sự không thừa nhận cộng đồng như một pháp nhân.
Người dân tộc thiểu số tại Việt Nam là một bộ phận của cả dân tộc Việt Nam và có những đặc điểm như sau:
Một là, dân cư của các dân tộc thiểu số chiếm số lượng nhỏ trong tổng số dân cư cả nước. Tổng số dân của các các dân tộc thiểu số Việt Nam chỉ chiếm vài % tổng số dân cư cả nước. Tại Việt Nam, tổng số đồng bào của 53 dân tộc thiểu số (trừ dân tộc kinh) chỉ chiếm khoảng 15% tổng dân số cả nước. Trong số các dân tộc thiểu số, dân tộc chiếm số lượng nhiều nhất là dân tộc Tày, dân tộc Thái, dân tộc Mường (chiếm chưa đến 2% tổng số dân cả nước).
Hai là, địa bàn sinh sống của đồng bào của các dân tộc thiểu số chủ yếu tập trung vào các vùng núi và vùng sâu vùng xa [16, tr.19] và phần lớn sống ở khu vực nông thôn. Vì vị trí địa lý sinh sống của họ nhiều cách trở nên khả năng tiếp xúc với cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công cơ bản như giáo dục, y tế còn gặp nhiều hạn chế. Điều này gây ảnh hưởng tới đời sống kinh tế – xã hội của bà con vùng dân tộc thiểu số cũng như trình độ dân trí và hiểu biết pháp luật của người dân. Vì vậy, việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người dân tộc thiểu số đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống của người dân tộc thiểu số, góp phần lớn để bảo vệ quyền, lợi ích của họ.
Ba là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam có nền văn hoá đậm đà bản sắc, mang đậm những nét độc đáo góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hoá Việt Nam. Mỗi dân tộc lại có những nét văn hoá đặc trưng chứa đựng những giá trị văn hoá truyền thống thể hiện qua các phong tục, tập quán, các lễ hội truyền thống, lễ nghi, trang phục và các nghề truyền thống. Chẳng hạn dân tộc Thái, Mường có lễ hội hoa ban, hội tung còn, đẩy gậy, cầu mùa, xên mường, xên bản, gắn với mùa vụ trong năm và các làn điệu hát dân ca, như: giao duyên, đang, xường … Đồng bào dân tộc Mông có lễ hội mùa xuân, với nhiều trò chơi dân gian là ném pao, tu lu, đặc biệt là điệu múa khèn truyền thống. Dân tộc Dao có lễ cấp sắc, kết duyên, chúc phúc, … Ngoài ra, các dân tộc còn có tiếng nói, chữ viết riêng. Những nét đẹp truyền thống đó luôn được Nhà nước gìn giữ, bảo tồn, phát huy các truyền thống văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc.
Xem thêm: Đại đoàn kết dân tộc là gì? Nội dung, vai trò và ý nghĩa của đại đoàn kết dân tộc?
3. Những dân tộc thiểu số tiêu biểu tại Việt Nam:
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc cùng sinh sống. Người Kinh chiếm 85,4% dân số Việt Nam, với 78,32 triệu người. 53 dân tộc thiểu số (DTTS) còn lại chỉ chiếm 14,6% dân số cả nước.
Mặc dù Việt Nam ủng hộ Tuyên bố về quyền của người bản địa (UNDRIP), Chính phủ không đồng nhất khái niệm người dân tộc thiểu số với người bản địa. Thay vào đó, Chính phủ dùng thuật ngữ “dân tộc thiểu số” để chỉ chung cho những người không thuộc dân tộc Kinh, thể hiện chủ trương “thống nhất trong đa dạng” của Chính phủ.
Giữa các DTTS cũng có rất nhiều khác biệt. Trong số đó, người Hoa (dân tộc Hán) có nhiều đặc điểm văn hóa tương đồng với văn hóa Việt Nam, và họ cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, người Hoa thường không được ghi nhận là một “dân tộc thiểu số” ở Việt Nam. Các dân tộc khác, ví dụ như dân tộc H’Mông và dân tộc Nùng chủ yếu sống dựa vào trồng trọt và duy trì đời sống văn hóa gắn liền với những khu rừng. Các DTTS cũng được phân chia theo hệ ngôn ngữ. Ngôn ngữ của các dân tộc Việt Nam được chia làm 8 nhóm: Việt – Mường, Tày – Thái, Môn – Khmer, Mông – Dao, Ka đai, Nam đào, Hán và Tạng. 96% các dân tộc thiểu số nói tiếng mẹ đẻ của họ.
Hiện nay, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các chính sách phát triển, ưu đãi mà các dân tộc đang ngày càng có đời sống tốt hơn. Địa bàn cư trú của các dân tộc đã có sự xen kẽ với nhau chính vì vậy mà đã tạo ra sự giao thoa của các nền văn hóa. So với việc phát triển kinh kế riêng biệt thì hiện nay các dân tộc đã mở rộng phạm vi, tham gia vào công cuộc phát triển kinh tế của cả nước.