Có những trào lưu duy tâm xuyên suốt triết học Ấn Độ, cổ đại và hiện đại. Chủ nghĩa duy tâm của Ấn Độ giáo thường có hình thức nhất nguyên hoặc chủ nghĩa bất nhị, tán thành quan điểm rằng ý thức nhất thể là bản chất hoặc ý nghĩa của thực tại hiện tượng và đa nguyên. Mặt khác, chủ nghĩa duy tâm Phật giáo mang tính nhận thức cao hơn và không phải là một chủ nghĩa duy tâm siêu hình, mà các Phật tử coi là duy tâm vĩnh cửu và do đó không phải là con đường trung gian giữa các thái cực được Đức Phật tán thành. Vậy chủ nghĩa duy tâm là gì? Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm?
Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568
1. Chủ nghĩa duy tâm là gì?
Trong triết học, thuật ngữ duy tâm xác định và mô tả các quan điểm siêu hình khẳng định rằng thực tại là không thể phân biệt và không thể tách rời khỏi nhận thức và hiểu biết của con người; rằng thực tế là một cấu trúc tinh thần được kết nối chặt chẽ với các ý tưởng.
Các quan điểm duy tâm gồm hai loại:
– Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng vật thể chỉ tồn tại ở mức độ con người nhận thức được vật thể đó;
– Chủ nghĩa duy tâm khách quan đề xuất sự tồn tại của ý thức khách quan có trước và độc lập với ý thức con người, do đó sự tồn tại của đối tượng độc lập với nhận thức của con người.
Nhà triết học George Berkeley nói rằng bản chất của một đối tượng là được nhận thức. Ngược lại, Immanuel Kant nói rằng chủ nghĩa duy tâm “không quan tâm đến sự tồn tại của sự vật”, nhưng “phương thức đại diện” của chúng ta đối với những thứ như không gian và thời gian không phải là “những xác định thuộc về sự vật tự nó”, mà là những đặc điểm thiết yếu của tâm trí con người.
Trong triết học “chủ nghĩa duy tâm siêu việt”, Kant đề xuất rằng các đối tượng của kinh nghiệm dựa vào sự tồn tại của chúng trong tâm trí con người để nhận thức các đối tượng, và bản chất của tự nó là bên ngoài kinh nghiệm của con người, và không thể được hình thành nếu không có. ứng dụng của các phạm trù, tạo cấu trúc cho trải nghiệm thực tế của con người.
Về mặt nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm đi kèm với chủ nghĩa hoài nghi triết học về khả năng biết được sự tồn tại của bất kỳ sự vật nào độc lập với tâm trí con người. Về mặt bản thể học, chủ nghĩa duy tâm khẳng định rằng sự tồn tại của sự vật phụ thuộc vào bộ óc con người; do đó, chủ nghĩa duy tâm bản thể học bác bỏ các quan điểm của thuyết vật chất và thuyết nhị nguyên, bởi vì mỗi quan điểm không ưu tiên bản thể học cho tâm trí con người. Đối lập với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm khẳng định tính ưu việt của ý thức là nguồn gốc và tiền đề của sự vật hiện tượng. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tâm) là nguồn gốc của thế giới vật chất.
Các nhà triết học Ấn Độ và Hy Lạp đã đề xuất những lập luận sớm nhất cho rằng thế giới kinh nghiệm được xây dựng dựa trên nhận thức của tâm trí về thế giới vật chất. Chủ nghĩa duy tâm Ấn Độ giáo và chủ nghĩa tân sinh Hy Lạp đã đưa ra những lập luận nội tại cho sự tồn tại của một ý thức bao trùm như bản chất thực sự, như là nền tảng thực sự của thực tại.
Ngược lại, trường phái Yogācāra, xuất hiện trong Phật giáo Đại thừa ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, dựa trên chủ nghĩa duy tâm “duy tâm” ở một mức độ lớn hơn dựa trên các phân tích hiện tượng học về kinh nghiệm cá nhân. Điều này hướng đến những người theo chủ nghĩa kinh nghiệm được dự đoán trước một cách chủ quan như George Berkeley, người đã hồi sinh chủ nghĩa duy tâm ở châu Âu thế kỷ 18 bằng cách sử dụng các lập luận hoài nghi chống lại chủ nghĩa duy vật.
Bắt đầu với Immanuel Kant, các nhà duy tâm người Đức như Georg Wilhelm Friedrich Hegel, Johann Gottlieb Fichte, Friedrich Wilhelm Joseph Schelling, và Arthur Schopenhauer đã thống trị triết học thế kỷ 19. Truyền thống này, vốn nhấn mạnh đến đặc tính tinh thần hay “lý tưởng” của mọi hiện tượng, đã khai sinh ra các trường phái duy tâm và chủ quan, từ chủ nghĩa duy tâm Anh đến chủ nghĩa hiện tượng đến chủ nghĩa hiện sinh.
Chủ nghĩa duy tâm với tư cách là một triết học đã bị tấn công nặng nề ở phương Tây vào đầu thế kỷ 20. Các nhà phê bình có ảnh hưởng nhất đối với chủ nghĩa duy tâm nhận thức luận và bản thể luận là G. E. Moore và Bertrand Russell, nhưng các nhà phê bình của nó cũng bao gồm các nhà hiện thực mới. Theo Bách khoa toàn thư về Triết học Stanford, các cuộc tấn công của Moore và Russell có ảnh hưởng đến mức hơn 100 năm sau “bất kỳ sự thừa nhận nào về khuynh hướng duy tâm đều được xem xét trong thế giới nói tiếng Anh với sự dè dặt”.
Tuy nhiên, nhiều khía cạnh và mô hình của chủ nghĩa duy tâm vẫn có ảnh hưởng lớn đến triết học sau này. Hiện tượng học, một dòng triết học có ảnh hưởng từ đầu thế kỷ 20, cũng rút ra những bài học về chủ nghĩa duy tâm. Trong Bản thể và Thời gian của mình, Martin Heidegger đã phát biểu nổi tiếng:
Nếu thuật ngữ chủ nghĩa duy tâm coi như thừa nhận rằng bản thể không bao giờ có thể giải thích được thông qua các sinh mệnh, mà ngược lại, luôn là siêu nghiệm trong mối quan hệ của nó với bất kỳ sinh vật nào, thì khả năng đúng đắn duy nhất của các vấn đề triết học nằm ở chủ nghĩa duy tâm.
Trong trường hợp đó, Aristotle là một nhà duy tâm không kém Kant. Nếu chủ nghĩa duy tâm có nghĩa là giảm tất cả mọi sinh vật thành một chủ thể hoặc một ý thức, được phân biệt bằng cách giữ nguyên bản thể không xác định của chính nó, và cuối cùng được mô tả một cách tiêu cực là ‘phi vật chất’, thì chủ nghĩa duy tâm này cũng ngây thơ về mặt phương pháp hơn chủ nghĩa thô sơ nhất. chủ nghĩa hiện thực.
Xem thêm: Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
2. Chủ nghĩa duy tâm được dịch với tên tiếng Anh là gì?
Chủ nghĩa duy tâm được dịch với tên tiếng Anh là: Idealism
Xem thêm: Lực lượng sản xuất là gì? Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay
3. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm?
Chủ nghĩa duy tâm là một thuật ngữ có một số ý nghĩa liên quan. Nó xuất phát từ ý tưởng tiếng Latinh từ ý tưởng Hy Lạp cổ đại từ chữ Idein, có nghĩa là “để xem”. Thuật ngữ này được sử dụng trong ngôn ngữ tiếng Anh vào năm 1743. Lần đầu tiên nó được sử dụng theo nghĩa siêu hình trừu tượng “niềm tin rằng thực tế chỉ được tạo thành từ các ý tưởng” bởi Christian Wolff vào năm 1747. Thuật ngữ này tái nhập vào ngôn ngữ tiếng Anh theo nghĩa trừu tượng này vào năm 1796.
Nói theo ngôn ngữ thông thường, như khi nói về chủ nghĩa lý tưởng chính trị của Woodrow Wilson, nó thường gợi ý sự ưu tiên của các lý tưởng, nguyên tắc, giá trị và mục tiêu hơn là thực tế cụ thể. Những người theo chủ nghĩa duy tâm được hiểu là đại diện cho thế giới như nó có thể có hoặc nên có, không giống như những người theo chủ nghĩa thực dụng, những người tập trung vào thế giới như hiện nay.
Tương tự, trong nghệ thuật, chủ nghĩa duy tâm khẳng định trí tưởng tượng và nỗ lực hiện thực hóa một quan niệm tinh thần về cái đẹp, một tiêu chuẩn của sự hoàn hảo, song song với chủ nghĩa tự nhiên thẩm mỹ và chủ nghĩa hiện thực. Thuật ngữ duy tâm đôi khi cũng được sử dụng theo nghĩa xã hội học, nó nhấn mạnh cách các ý tưởng của con người – đặc biệt là niềm tin và giá trị – định hình xã hội.
Bất kỳ triết học nào gán tầm quan trọng cốt yếu cho lĩnh vực lý tưởng hoặc tinh thần trong tài khoản của nó về sự tồn tại của con người đều có thể được gọi là “chủ nghĩa duy tâm”. Chủ nghĩa duy tâm siêu hình là một học thuyết bản thể học cho rằng bản thân thực tại là tồn tại hoặc kinh nghiệm ở cốt lõi của nó. Ngoài vấn đề này, những người theo chủ nghĩa duy tâm không đồng ý về khía cạnh nào của tinh thần là cơ bản hơn.
Chủ nghĩa duy tâm Platon khẳng định rằng những điều trừu tượng là cơ bản đối với thực tế hơn là những điều chúng ta nhận thức được, trong khi những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan và những người theo chủ nghĩa hiện tượng có xu hướng coi trọng kinh nghiệm cảm tính hơn lý luận trừu tượng. Chủ nghĩa duy tâm nhận thức là quan điểm cho rằng thực tế chỉ có thể được biết đến thông qua các ý tưởng, rằng chỉ kinh nghiệm tâm lý mới có thể được lĩnh hội bởi trí óc.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan như George Berkeley là những người chống hiện thực về một thế giới độc lập về tâm trí. Tuy nhiên, không phải tất cả những người theo chủ nghĩa duy tâm đều hạn chế cái thực hoặc cái có thể biết được đối với kinh nghiệm chủ quan tức thời của chúng ta. Những người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan đưa ra những tuyên bố về một thế giới xuyên thời gian, nhưng chỉ đơn giản phủ nhận rằng thế giới này về cơ bản đã tách khỏi hoặc về mặt bản thể học trước khi có tinh thần. Do đó, Plato và Gottfried Leibniz khẳng định một thực tại khách quan và có thể biết được vượt qua nhận thức chủ quan của chúng ta — một sự bác bỏ chủ nghĩa duy tâm nhận thức luận – nhưng đề xuất rằng thực tại này có cơ sở trong các thực thể lý tưởng, một dạng của chủ nghĩa duy tâm siêu hình.
Tất cả các nhà duy tâm siêu hình cũng không nhất trí về bản chất của lý tưởng; đối với Plato, các thực thể cơ bản là các dạng trừu tượng phi tinh thần, trong khi đối với Leibniz, chúng là các đơn nguyên cụ thể và tiền tinh thần.
Theo quy luật, những nhà duy tâm siêu việt như Kant khẳng định mặt nhận thức của chủ nghĩa duy tâm mà không cam kết liệu thực tế cuối cùng có phải là tinh thần hay không; những nhà duy tâm khách quan như Plato khẳng định cơ sở siêu hình của thực tại trong tinh thần hoặc trừu tượng mà không giới hạn nhận thức luận của họ trong kinh nghiệm thông thường; và các nhà duy tâm chủ quan như Berkeley khẳng định cả chủ nghĩa duy tâm siêu hình và nhận thức luận