Hàng hóa công cộng là loại hàng hóa mà tất cả mọi thành viên trong xã hội có thể sử dụng chung với nhau. Cùng tìm hiểu thêm các khái niệm khác như: hàng hóa công cộng thuần túy là gì, hàng hóa tiêu dùng chung là gì, … cho bài viết sau đây.
Xem thêm:
+ Khái niệm hàng hóa, phân tích mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa
+ Những lý luận cơ bản về kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương
1. Hàng hóa công cộng là gì?
Hàng hóa công cộng là loại hàng hóa mà tất cả mọi thành viên trong xã hội có thể sử dụng chung với nhau. Việc sử dụng của người này không ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng của người khác. Ví dụ: Lợi ích của quốc phòng, chương trình y tế quốc gia, chương trình giáo dục công cộng.
Theo Paul Samuelson thì, hàng hóa công là những loại hàng hóa mà chi phí để nhận dịch vụ từ nó đối với mỗi người là bằng 0, không thể cấm mọi người cùng sử dụng.
Theo Joseph Stighlitz, hàng hóa công là những loại hàng hóa mà việc một cá nhân này đang hưởng thụ lợi ích do hàng hóa đó tạo ra không ngăn cản những người khác cùng đồng thời hưởng thụ lợi ích của nó.
Sản phẩm xã hội hay hàng khuyến dụng hay hàng hóa công cộng (social product or merit good or public good) là hàng hóa hay dịch vụ như giáo dục, y tế do chính phủ cung cấp vì lợi ích xã hội hay một nhóm dân dư nhất định. Không có mối liên hệ trực tiếp giữa việc chi tiêu dùng sản phẩm xã hội và việc trả tiền cho chúng. Mọi người trả tiền cho sản phẩm xã hội bằng cách nộp thuế theo luật thuế, chứ không phải bằng cách mua hàng hóa trên thị trường.
(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân)
Hàng hóa công cộng là gì
2. Vậy đặc điểm của hàng hóa công cộng là gì?
Để một hàng hóa trở thành hàng hóa công cộng, hàng hóa đó cần phải thỏa mãn 1 hoặc 2 đặc điểm sau:
– Một là, nó không phải được dành riêng cho ai, không ai có quyền sở hữu cá nhân về hàng hóa ấy. thật khó để buộc mọi người phải trả tiền trực tiếp khi sử dụng hàng hóa mà không dành riêng cho mình, bởi vì nếu không trả tiền trực tiếp, họ cũng không thể hưởng thụ được hàng hóa ấy. ví dụ như lợi ích quốc phòng. Giả sử như một cá nhân nào đó không chịu trả chi phí để hưởng lợi từ các chương trình quốc phòng, nhưng rõ ràng không thể loại trừ họ ra khỏi việc hưởng thụ lợi ích từ các chương trình này..
– Hai là, việc sử dụng hàng hóa công của người này không ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng của n gười khác.. bởi vì chi phí tăng thêm để tiêu dùng hàng hóa tăng thêm là rất nhỏ, gần như bằng không. Chúng ta hãy xem xét việc các tàu biển sử dụng hải đăng. Khi ngọn hải đăng được xây dựng và đang hoạt động thì việc có bao nhiêu tàu biển sử dụng hải đăng hầu như không làm ảnh hưởng gì đến chi phí hoạt động của hải đăng. Lợi ích sử dụng của tàu biển nào đó từ ngọn hải đăng không vì thế mà giảm đi lợi ích tàu khác khi sử dụng hải đăng ấy.
Tuy nhiên, không phải bất kì một hàng hóa được gọi là hàng hóa công nào cũng đảm bảo một cách nghiêm ngặt các đặc điểm trên, mà tùy theo mức độ bảo đảm, mà người ta có thể chia thành hai loại hàng hóa công. Đó là hàng hóa công thuần túy và hàng hóa công không thuần túy.
3. Cách phân loại hàng hóa công cộng là gì?
Hàng hóa công cộng được chia làm 2 loại: hàng hóa công cộng thuần túy và hàng hóa công cộng không thuần túy.
3.1. Hàng hóa công cộng thuần túy (Pure Public Goods)
Hàng hóa công cộng thuần túy là loại hàng hóa công cộng không thể định suất sử dụng và việc đinh suất sử dụng là không cần thiết. Có nghĩa là mọi người đều có thể sử dụng hàng hóa.. mức độ sử dụng phụ thuộc vào nhu cầu của họ và các quy định chung.
Trong nhiều trường hợp mức độ này không thể định suất hoặc định suất sẽ không có hiệu quả. Như vậy hàng hóa công cộng thuần túy là loại hàng hóa công cộng phải đảm bảo được đặc điểm đầu tiên là hàng hóa thuộc quyền sỡ hữu công cộng, không thể loại trừ các cá nhân sử dụng chúng, bởi vì:
– Không thể đo lường mức độ sử dụng của từng người, do đó không thể buộc người tiêu dùng phải trả tiền trực tiếp khi sử dụng hàng hóa. Chi phí cho việc sản xuất hàng hóa công cộng chỉ có thể bù đắp thông qua hệ thống thuế.
Ví dụ: Chương trình quốc phòng, hệ thống đường sá, hải đăng, không khí trong sạch… Đối với loại hàng hóa công cộng này người ta hoàn toàn không thể dịnh suất hoặc loại trừ một cá nhân nào đó trong việc sử dụng hàng hóa. Điều đó là không thực hiện được. Dù có trả tiền hay không thì các cá nhân vẫn có thể được sử dụng hàng hóa.
– Việc định suất hoặc loại trừ các cá nhân sử dụng hàng hóa có khả năng dẫn đến tình trạng kém hiệu quả, thậm chí gây hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Chương trình phòng chống bệnh lây nhiễm; chương trình phòng, chữa cháy; chương trình xóa nạn mù chữ… Đối với các loại hàng hóa công cộng này việc địn suất hoặc loại trừ một cá nhân nào đó trong việc sử dụng hàng hóa sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nhân khác, hiệu quả kinh tế – xã hội bị giảm đi. Giả sử có một cá nhân nào đó không đồng ý trả tiền cho việc phòng – chữa cháy.
Tuy nhiên, đội phòng – chữa cháy cũng không thể bỏ rơi các cá nhân đó trong hỏa hoạn xảy ra. Bởi vì thiệt hại của cá nhân đó sẽ dẫn đến thiệt hại cho các cá nhân khác và ngược lại. Đối với hàng hóa công cộng thuần túy, đặc điểm thứ hai của hàng hóa công cộng là việc sử dụng hàng hóa không ảnh hưởng đáng kể giữa các cá nhân sử dụng có thể được bảo đảm hoặc không bảo đảm.
Cách phân loại hàng hóa công cộng là gì
Hàng hóa công cộng thuần túy bảo đảm đặc điểm thứ hai, bao gồm: chương trình quốc phòng, chương trình y tế, chương trình phòng chữa cháy, hải đăng, chương trình phổ thông giáo dục…. Việc tăng thêm một cá nhân nào đó tiêu dùng hàng hóa trên không làm ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của các cá nhân khác. Hàng hóa công cộng thuần túy không bảo đảm đặc điểm thứ hai bao gồm: không khí trong sạch, sông ngòi ao hồ, đường sá có mật độ lưu thông cao. Những chất xả thải của một hãng có thể có tác động đến chất lượng không khí trong sạch; việc quá nhiều người đánh bắt cá trên sông ngòi ao hồ có thể làm ảnh hưởng đáng kể đến sản lượng đánh bắt lẫn nhau; trên một đoạn đường có mật độ lưu thông quá cao, việc tăng thêm một người đi trên đường sẽ có những cản trở lưu thông nào đó đối với những người dang lưu thông khác….
3.2. Hàng hóa công không thuần túy (Impure Public Goods)
Là hàng hóa công có thể định suất sử dụng, có thể loại trừ các cá nhân sử dụng nhưng phải chấp nhận một khoản tốn kém chi phí nhất định. Như vậy hàng hóa công cộng không thuần túy là loại hàng hóa công cộng không đảm bảo được điều kiện đầu tiên nhưng bảo đảm được điều kiện thứ hai. Có nghĩa là hàng hóa công cộng không thuần túy hoàn toàn có thể thuộc quyền sở hữu của một cá nhân nào đó và do đó nó có thể được đinh suất và loại trừ các cá nhân khác trong việc sử dụng.Tuy nhiên, việc tiêu dùng hàng hóa của người này cũng không làm ảnh hưởng đáng kể đến việc tiêu dùng của người khác.
Ví dụ: Đường cáp vô tuyến truyền hình, mạng lưới điện thoại, đường cao tốc, lớp học… bằng việc sử dụng con người hoặc những phương tiện kĩ thuật thiết bị, người ta hoàn toàn có thể kiểm soát, định suất hoặc loại trừ việc sử dụng các hàng hóa này. Việc tính xem có bao nhiêu thời gian cho việc xem một kênh truyền hình, có bao nhiêu cuộc gọi điện thoại trong tháng, có bao nhiêu lần đi trên đường cao tốc…của một cá nhân nào đó hoàn toàn có thể thực hiện. Điều đó lý giải vì sao trong lĩnh vực này có sự xuất hiện của các nhà sản xuất tư nhân và vì lẽ dĩ nhiên họ có quyền sỡ hữu cá nhân về hàng hóa mà họ sản xuất ra.
Trong giới hạn nhất định, việc tiêu dùng hàng hóa của cá nhân này hầu như không ảnh hưởng đáng kể đến việc tiêu dùng của người khác. Việc một cá nhân sử dụng nhiều hay ít thời gian cho một kênh truyền hình nào đó hầu như không ảnh hưởng đáng kể đến cá nhân khác đang sử dụng kênh truyền hình đó; việc một cá nhân đi nhiều lần hay ít lần trên một đoạn đường cao tốc có mật độ giao thông thấp cũng chẳng ảnh hưởng gì đến một cá nhân khác cũng đang đi trên đường đó. Qua bài viết này, bạn đã hiểu “hàng hóa công cộng là gì chưa?”.
4. Ví dụ về hàng hóa công cộng
Một vài ví dụ về hàng hóa công cộng bao gồm: không khí để thở, tri thức và thông tin, an ninh quốc gia, hệ thống kiểm soát lũ lụt, hải đăng, đèn đường. Một số loại có thể là hàng hóa công cộng phụ thuộc các điều kiện nhất định. Ví dụ, đường sá là hàng hóa công cộng cho đến chừng nào mà chúng không bị ách tắc, điều này đem lại cho chúng tính không cạnh tranh. Tri thức và thông tin có thể chuyển đổi thành loại hàng hóa bán công cộng bởi các đạo luật sở hữu trí tuệ mà qua đó sẽ ngăn chặn việc mọi người khai thác và sử dụng chúng. Những hàng hóa công cộng mà sẵn có ở khắp mọi nơi đôi khi được gọi là hàng hóa công cộng toàn cầu.
Nhiều loại hàng hóa công cộng tại một số thời điểm dễ bị khai thác sử dụng quá mức dẫn tới những ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực tác động đến tất cả mọi người sử dụng; ví dụ như ô nhiễm không khí và tắc nghẽn giao thông. Các vấn đề của hàng hóa công cộng thường có liên quan chặt chẽ tới vấn đề “kẻ đi xe không trả tiền”, trong đó những người không chịu gánh vác những chi phí cần thiết để hàng hóa công cộng duy trì được cung cấp vẫn có thể tiếp tục tiếp cận sử dụng hàng hóa đó. Bởi vậy, hàng hóa có thể bị sản xuất ở mức thấp dưới ngưỡng cần thiết hay mong muốn, bị lạm dụng hoặc giảm giá trị.
Ngoài ra, hàng hóa công cộng còn có thể trở thành đối tượng bị hạn chế tiếp cận và rồi có thể được xem như hàng hóa bán công cộng hay hàng hóa tư nhân. Các cơ chế loại trừ bao gồm bản quyền, bằng sáng chế, phí ùn tắc, và truyền hình trả tiền.
Đã có nhiều cuộc tranh luận và tài liệu bàn về việc làm thế nào để xác định tầm quan trọng của các vấn đề liên quan tới hàng hóa công cộng trong nền kinh tế, hay cũng như để tìm ra những biện pháp khắc phục tối ưu.