Giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate)
Giấy chứng nhận bảo hiểm – danh từ, trong tiếng Anh được dùng bởi cụm từ Insurance Certificate.
Khi nhà xuất khẩu bán hàng một cách thường xuyên, anh ta thường kí một hợp đồng bảo hiểm bao (open policy) để bảo hiểm cho tất cả các lô hàng xuất khẩu tại bất cứ thời điểm nào trong một thời hạn nhất định theo các điều kiện và điều khoản như đã thỏa thuận trước.
Mỗi lần giao hàng, nhà xuất khẩu lập tờ khai về các chi tiết liên quan đến lô hàng và trả phí bảo hiểm. trên cơ sở tờ khai, công ty bảo hiểm sẽ phát hành một Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc công ty bảo hiểm kí xác nhận vào tờ khai (Declaration under an open cover) và trao cho khách hàng. (Theo Giáo trình Thanh toán quốc tế, NXB Thống kê)
Nên chọn Bảo hiểm đơn hay Giấy chứng nhận bảo hiểm?
Hiện nay, ở nhiều nước, người mua bảo hiểm muốn kiện công ty bảo hiểm trước tòa án về việc không bồi thường tiền bảo hiểm phải có Bảo hiểm đơn (hợp đồng bảo hiểm), điều này hàm ý chỉ riêng Giấy chứng nhận bảo hiểm là chưa đủ bằng chứng pháp lí để tiến hành kiện công ty bảo hiểm trước tòa án.
Chính vì vậy, một số người cho rằng khi mua bảo hiểm nhất thiết phải yêu cầu công ty bảo hiểm cấp cho một Bảo hiểm đơn thì mới chắc chắn. Tuy nhiên, thực tế điều này là không quan trọng và không cần thiết, bởi vì mỗi lần cấp Bảo hiểm đơn rất tốn kém, hơn nữa khi có tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm chỉ cần xuất trình Giấy chứng nhận bảo hiểm là được công ty bảo hiểm bồi thường.
Chừng nào công ty bảo hiểm không bồi thường một cách hợp pháp, có thể là do phá sản hoặc có tranh chấp xảy ra phải cần đến tòa án giải quyết thì lúc đó mới cần đến Bảo hiểm đơn.
Trong thực tế, những tình huống này rất hiếm khi xảy ra, do đó các bên có liên quan cũng chấp nhận Giấy chứng nhận bảo hiểm như là Bảo hiểm đơn, nghĩa là cả hai loại chứng từ bảo hiểm này được coi là có giá trị như nhau.
Tóm lại, qua phân tích cho thấy, Bảo hiểm đơn hay Giấy chứng nhận bảo hiểm là những chứng từ do Công ty bảo hiểm cấp cho người được bảo hiểm, có các tác dụng chính sau đây:
– Xác nhận đã kí kết một hợp đồng bảo hiểm với các điều kiện và điều khoản của hợp đồng.
– Xác nhận người được bảo hiểm trả phí còn người bảo hiểm thu phí, do đó nó thừa nhận rằng hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực.
– Là chứng từ cần thiết để khiếu nại tiền bồi thường bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra gây tổn thất cho hàng hóa. (Theo Giáo trình Thanh toán quốc tế, NXB Thống kê)