Theo những trang sử cũ được nghiên cứu và ghi chép lại, Nhà nước Văn Lang là nhà nước đầu tiên được ra đời trong lịch sử cổ đại Việt Nam, được cai trị bởi các vị vua Hùng Vương. Nhà nước Văn Lang được hình thành với những đặc điểm của hình thái sơ khai. Vậy nhà nước Văn Lang ra đời khi nào và trong hoàn cảnh nào? Kinh đô đặt ở đâu, của ai? Kinh tế, đời sống cư dân Nhà nước Văn Lang ra sao?… Bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn tìm hiểu cụ thể.
1. Lịch sử của Nhà nước Văn Lang:
1.1. Hoàn cảnh thành lập Nhà nước Văn Lang:
Bắt đầu từ khoảng TK VIII – VII TCN, ở vùng đồng bằng ven các con sông lớn của Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (nay là châu thổ sông Hồng) dần dần hình thành những bộ lạc lớn, cư dân Lạc Việt đã sống quây quần ở lưu vực các con sống lớn có những chuyển biến về kinh tế- xã hội:
Trong quá trình sinh sống trong cộng đồng dan cư lúc bấy giờ bắt đầu hình thành các bộ lạc mới. Hoạt động sản xuất tại các khu vực này ngày căng có phát triển, kéo theo đó là trong xã hội bắt đầu có sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo ngày càng được nới rộng. Người giàu được bầu làm người đứng đầu, trông coi mọi việc. Còn người nghèo khổ phải rơi vào cảnh nô tì.
Khoảng thời gian sau đó nghề nông trồng lúa nước ở các vùng đồng bằng ven các con sông lớn cũng bắt đầu gặp nhiều khó khăn, kèm theo đó là giặc ngoại xâm đã bắt đầu dòm ngó, xâm lược nước ta. Bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết, cùng chung ý chí, mong muốn chống giặc ngoại xâm các bộ tộc đã có sự liên kết với nhau giúp giải quyết vấn đề xung đột giữa các bộ tộc.
Như vậy, do nhu cầu làm thủy lợi và chống ngoại xâm đã thúc đẩy sự ra đời của nhà nước đầu tiên ở Việt Nam – Nhà nước Văn Lang. Điều đó bắt buộc nhân dân cần đoàn kết lại để cùng làm thủy lợi và cần có thủ lĩnh uy tín và tài năng chỉ đạo các cuộc đấu tranh chống xung đột, phải có một tổ chức quản lí xã hội.
Phạm vi lãnh thổ của nhà nước Văn Lang lúc bấy giờ chủ yếu ở lưu vực các sông thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay.
1.2. Kinh đô nước Văn Lang ở đâu?
Theo các tài liệu sử sách ghi chép lại, kinh đô của nhà nước Văn Lang đóng ở Bắc Hầu (nay là thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) tại ngã ba sông lớn phía Bắc là sông Hồng – Lộ – Đà (Ngã Tư). Ba Bảo Hà) đến chân núi Nghĩa Lĩnh (núi Hùng – núi Cả). Khu vực này là vùng đất có hình dạng địa lý rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng lúa nước, săn bắt thú rừng, giao lưu kinh tế, văn hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.3. Ai đứng đầu Nhà nước Văn Lang?
Thời điểm lúc bấy giờ, trong các bộ tộc Việt Nam, bộ tộc Văn Lang là bộ tộc hùng mạnh nhất về hoạt động sản xuất cũng như quy mô rộng lớn; Đồng thời bộ lạc Văn Long còn có những người thủ lĩnh anh dũng. Lãnh thổ của bộ tộc Văn Long theo nhiều tài liệu nghiên cứu trải dài từ chân núi Ba Vì đến tận sườn núi Tam Đảo. Vì vậy, Bộ Văn Lang đứng ra thống nhất các tộc Việt khác thành lập Nhà nước Văn Lang để cùng nhau phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và chống ngoại xâm.
Người đứng đầu nhà nước Văn Lang còn gọi là Vua Hùng, hay “Hùng Vương”. Các đời vua kế vị của nước Văn Lang đều lấy tước hiệu đó làm Quốc trưởng/trị vì.
2.Tên gọi:
Từ “Văn Lang” có nguồn gốc từ tiếng Việt cổ là Blang hay Klang, nhiều dân tộc miền núi ở cao nguyên Trung Bộ dùng để chỉ một loại chim mà họ tôn kính như vật tổ. Trong truyền thống của người Mường, tổ tiên của họ là hai con chim Ay và Ua (hay Klang và Klao). Tên nước “Văn Lang” được bắt nguồn từ đó. Nguồn gốc của nước Văn Lang đã cho thấy sự xuất hiện lâu đời của nhà nước, cũng như nền văn hóa từ thời cổ xưa cũng được hình thành trên đất nước.
3. Nhà nước Văn Lang được chia thành bao nhiêu bộ?
3.1. Nhà nước Văn Lang được chia thành bao nhiêu bộ?
Theo như nhiêu nghiên cứu về lĩnh vực sử học thì nhà nước Văn Lang được chia thành 15 bộ hay còn gọi là quận do Lạc tướng đứng đầu. Tổ chức bộ máy nhà nước Văn Lang gồm 15 bộ như sau:
– Văn Lang (Bạch Hạc – Việt Trì)
– Châu Diên (Sơn Tây – Hà Tây)
– Phúc Lộc (Sơn Tây – Hà Tây)
– Tân Hưng ( Hưng Hóa –
– Vũ Đình (Thái Nguyên – Cao Bằng)
– Vũ Ninh (Bắc Ninh)
– Lục Hải (Lạng Sơn)
– Ninh Hải (Hưng Yên – Hải Dương – Quảng Ninh)
– Dương Tuyền (Hải Dương)
– Giao Chỉ (Hà Nội – Hưng Yên – Nam Định – Ninh Bình – Hà Nam)
– Cửu Chân (Thanh Hóa)
– Hoài Hoàn (Nghệ An)
– Cửu Đức (Hà Tĩnh)
– Việt Thường (Quảng Bình – Quảng Trị)
– Bình Vân
3.2. Dưới thời Văn Lang đứng đầu mỗi bộ là ai?
Trong thời kỳ nhà nước Văn Long người đứng đầu nhà nước là Vua – gọi là Hùng Vương. Giúp việc cho vua Hùng trị nước có Lạc Hầu, Lạc Tướng. Vua, Lạc Hầu, Lạc Tướng thuộc tầng lớp giàu có/thượng lưu trong xã hội. Người thường gọi là Lạc dân. Đây là tầng lớp thấp nhất, nghèo khổ nhất trong xã hội lúc bấy giờ được gọi là nô lệ.
Người đứng đầu mỗi bộ được gọi là Lạc tướng.
4. Đời sống cư dân nước Văn Lang:
Nghề nghiệp chính của nhân dân dưới thời các vua Hùng là làm ruộng. Họ trồng lúa, khoai tây, đậu, cây ăn quả, rau và dưa hấu. Họ còn biết nấu xôi, gói bánh chưng, làm bánh giầy, làm mắm v.v.
Người dân biết đúc đồng để làm vũ khí, đồ trang sức,… làm đồ gốm (nồi niêu), đan rổ rá, dụng cụ gia đình, v.v.
Đời sống tinh thần của người dân Văn Lang cũng rất phong phú với nhiều tục lệ như tục ăn trầu, tục nhuộm răng…
Một số phong tục cổ truyền vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay, cụ thể:
– Ở khu vực miền núi, người dân vẫn ở nhà sàn để tránh thú dữ và tụ tập thành bản. Họ thờ thần đất, thần mặt trời.
– Phong tục nhuộm răng đen, ăn trầu, búi tóc vẫn được gìn giữ đến ngày nay… Phụ nữ thích đeo hoa tai và nhiều vòng tay bằng đá, đồng.
– Vào những dịp hội làng, người dân ngày nay cũng như nhà nước Văn Lang trước đó thường hóa trang, vui chơi, nhảy múa theo nhịp trống đồng. Trai làng đua thuyền trên sông hay đấu vật trên cánh đồng bát ngát.
4.1.Tiêu chuẩn cuộc sống:
Về Kinh tế: nghề nghiệp chính là trồng lúa nước, ngoài ra còn chăn nuôi, đánh cá…Thức ăn chính hàng ngày của họ là: gạo nếp, gạo tẻ, rau, cà, thịt, cá, ốc…
Về Nhà Ở: cư dân sống trong lồng bè, nhà sàn. Nhà ở phổ biến của cư dân Văn Lang là nhà sàn làm bằng gỗ, tre, nứa, lá, có cầu thang lên xuống để tránh thú dữ.
Về trang phục:
– Ngày thường, đàn ông sẽ đóng khố, để trần, đi chân đất; Phụ nữ thì mặc áo, váy xẻ giữa, có yếm che ngực.
– Vào những ngày lễ, phụ nữ sẽ mặc váy bằng lông vũ, đội mũ bằng lông vũ hoặc bông gòn.
Về phương tiện di chuyển: Thuyền là phương tiện di chuyển trên sông còn bình thường khi di chuyển trên bộ người văn long di chuyển bằng hai chân.
4.2. Đời sống tinh thần:
Cuộc sống của người dân Văn Lang rất là nhột nhịp thường xuyên có nhiều ngày hội và tiệc tùng trong năm. Trong những dịp lễ hội, mọi người thích hóa trang, vui chơi, nhảy múa và ca hát.
Về Tín ngưỡng:
Người Văn Long tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên các lực tự nhiên như núi, sông, mặt trời, v.v.
Ngoài ra người Văn Lang tín ngưỡng chôn người chết bằng đồ tùy táng cho đến ngày nay vẫn có nhiều nơi còn duy trì.
Về Phong tục: Các tục gói bánh chưng, làm bánh giây ngày tết, ăn trầu, nhuộm răng đen, xăm mình, v.v.
5. Ý nghĩa sự ra đời của Nhà nước Văn Lang và những thành tựu đạt được:
5.1. Ý nghĩa sự ra đời của Nhà nước Văn Lang:
Sự ra đời của Nhà nước Văn Lang mở đầu thời kỳ dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam; khởi đầu của nền văn minh sông Hồng.
Sự ra đời của Nhà nước Văn Lang Chứng tỏ quốc gia cổ của người Việt được hình thành sớm, Việt Nam có truyền thống lịch sử lâu đời.
Đây là nền móng đặt cơ sở cho sự phát triển cao hơn của nhà nước Âu Lạc (ở giai đoạn sau)
5.2.Thành tựu của Nhà nước Văn Lang:
Trong thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước Văn Lang, nhà nước Văn Lang đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Cụ thể:
Về lĩnh vực nông nghiệp: Nhà nước Văn Lang có nền nông nghiệp rất phát triển. Cư dân nhà nước Văn Lang đã biết trồng lúa nước và sử dụng các công cụ cày, cuốc, mai, v.v… để phục vụ hoạt động sản xuất. Thời Văn Lang, người ta dùng gạo để làm các món: bánh, cơm lam. Ngoài ra, họ còn biết sử dụng các loại gia vị ngày nay: nước mắm, men rượu, v.v.
Về lĩnh vực văn hóa: Người dân thời Văn Lang có tục nhuộm răng đen, ăn trầu, xăm mình. Vỏ cây được dùng để may quần áo cho phụ nữ và nam giới thường đóng khố. Đồng thời, người dân thời kỳ này rất thích đeo trang sức. Họ đã biết sử dụng công cụ kéo sợi bằng đất nung. Để tự bảo vệ mình, người dân nơi đây còn biết vác gậy đuổi thú rừng.
Về lĩnh vực tôn giáo: Họ rất tôn sùng thiên nhiên. Vì vậy, người dân đã thờ thần mặt trời, thần sông, thần núi… Ai cũng có ước vọng về cuộc sống ấm no, mùa màng bội thu… Ngoài ra, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, các anh hùng có công dựng nước của Nhà nước cũng bắt nguồn từ đây