A La Hán là ai?

A La Hán là ai?

La hán là gì

A La Hán là ai?

A La Hán hay Thanh Văn (tiếng Phạn: Arahat – Pali: Arahant) có nghĩa là tên gọi của những “người xứng đáng” hay “hoàn thiện”, đó là lý tưởng cao nhất của một đệ tử Đức Phật trong Phật giáo thời kỳ đầu. Người đã hoàn thành con đường dẫn đến giác ngộ và đạt được Niết bàn.

A La Hán cũng có ba nghĩa giống như Tỳ kheo. Tỳ kheo là nhân của A La Hán, A La Hán là quả của Tỳ kheo; nhân làm Tỳ kheo, tu được chứng quả, trở thành A La Hán.

A La Hán cũng có ba nghĩa giống như Tỳ kheo. Tỳ kheo là nhân của A La Hán, A La Hán là quả của Tỳ kheo; nhân làm Tỳ kheo, tu được chứng quả, trở thành A La Hán.

A La Hán cũng có ba nghĩa giống như Tỳ kheo. Tỳ kheo là nhân của A La Hán, A La Hán là quả của Tỳ kheo; nhân làm Tỳ kheo, tu được chứng quả, trở thành A La Hán.

La Hán Trầm Tư dù nghịch cảnh không khởi niệm bất bình

Ứng cúng: Trong khi tu nhân, Tỳ kheo là “khất sĩ”, phải đi xin cơm; lúc viên thành đạo quả, A La Hán là “ứng cúng”, xứng đáng nhận sự cúng dường của trời người; cũng chính là bậc mà trời người nên cúng dường. A La Hán còn gọi là “cúng ứng”, tức nên đi cúng dường các Tỳ kheo khác. Khi Phật tại thế, tất cả Tỳ kheo, mọi người đều phải cúng dường Phật; có một lần, Phật hóa thành người tu đạo đi cúng dường ngược lại các Tỳ kheo, đây gọi là “cúng ứng”.

Sát tặc: Giết những giặc gì? Giết giặc vô minh, giặc phiền não, sáu giặc mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nếu quý vị chứng được quả vị A La Hán, thì những loại giặc nầy đều bị tiêu diệt. Giặc ắt phải giết, thế còn không phải giặc, có giết không? Cũng giết luôn! không chỉ giết giặc, mà không phải giặc cũng giết, đó gọi là “sát tặc” (giết giặc). Thế nào là không phải giặc cũng giết? Vì khi còn ở hàng tiểu thừa Thanh văn, Duyên giác không nhận ra giặc; tu đến địa vị Bồ tát mới nhận ra đó là giặc! Ở địa vị La Hán thì nói là không phải giặc, đến trình độ Bồ tát mới thấy là giặc! Do đó không phải giặc cũng giết.

Vô sinh: Không có sinh, cũng không có diệt. Chứng được quả A La Hán thứ tư, ngộ được vô sinh pháp nhẫn, thấy trong ba ngàn đại thiên thế giới không có một pháp có thể sinh, cũng không có một pháp có thể diệt; cảnh giới nầy không thể nói, không thể bàn, chỉ có thể nhẫn thọ trong lòng, cho nên gọi là “vô sinh pháp nhẫn”.

La Hán là người có thần thông, thần thông nầy là thứ “vô nhập nhi bất tự đắc”, không phải từ ngoài vào nhưng cũng không phải tự có được, phải trải qua một quá trình nỗ lực tu tập mới có được.

La Hán là người có thần thông, thần thông nầy là thứ “vô nhập nhi bất tự đắc”, không phải từ ngoài vào nhưng cũng không phải tự có được, phải trải qua một quá trình nỗ lực tu tập mới có được.

Vị cư sĩ đầu tiên đắc quả A La Hán

Bốn bậc của vị La Hán

La Hán có bốn bậc: sơ quả A La Hán, nhị quả A La Hán, tam quả A La Hán và tứ quả A La Hán.

Sơ quả A La Hán còn có tên gọi là “quả Tu đà hoàn”; quả Tu đà hoàn nầy là quả đầu tiên của A La Hán. Chứng được sơ quả La hán, sinh tử không còn, gọi là “quả vị kiến đạo” (ở vào trình độ thấy được đạo), đây là quả vị thứ nhất. “Tu đà hoàn” là tiếng Phạn, dịch “nhập lưu”, tức là nhập vào dòng chảy pháp tánh của bậc Thánh, đi ngược lại dòng chảy sáu trần của phàm phu”.

Nhị quả A La Hán, gọi là “quả Tư đà hàm”. “Tư đà hàm” là tiếng Phạn, dịch là “nhất lai”; nếu như không tiếp tục tu tiến thì sẽ sinh trở lại cõi trời một lần, cõi người một lần, nên mới gọi nhị quả là “quả nhất lai” (một lần trở lại). Sơ quả còn phải chịu đến bảy lần sinh tử.

Tam quả A La Hán, gọi là “quả A na hàm”. “A na hàm” là tiếng Phạn, dịch là “bất lai”, không còn sinh lại cõi dục chịu sinh tử.

Tứ quả A La Hán là “quả vị vô học”. Vô học là không cần phải học nữa; chứng được quả vị vô học là đã liễu thoát sinh tử. Thế nào gọi là liễu thoát sinh tử? Tức đã chấm dứt “phần đoạn sinh tử”, nhưng vẫn còn bị “biến dịch sinh tử”.

La Hán là người có thần thông, thần thông nầy là thứ “vô nhập nhi bất tự đắc”, không phải từ ngoài vào nhưng cũng không phải tự có được, phải trải qua một quá trình nỗ lực tu tập mới có được.

Mời quý Phật tử xem thêm video: “Khắc phục lòng sân hận”: