Khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) – Tập đoàn Dầu khí Việt Nam

Khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) – Tập đoàn Dầu khí Việt Nam

Lng là gì

Khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG)

Nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia với nguồn cung khí ổn định lâu dài, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ khí và phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đặc biệt cho nhu cầu phát điện, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia VN đã chỉ đạo Tổng Công ty Khí VN (PVGas) triển khai thực hiện dự án nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng LNG (Liquefied Natural Gas).

LNG (Liquefied Natural Gas) là khí thiên nhiên được hóa lỏng khi làm lạnh sâu đến âm 162oC sau khi đã loại bỏ các tạp chất. LNG có thành phần chủ yếu là methane.

Do chỉ chiếm 1/600 thể tích so với khí thiên nhiên ở điều kiện tiêu chuẩn (15 độ C, 1 atm), LNG là sản phẩm khí thuận tiện cho việc tồn chứa, vận chuyển từ nơi sản xuất đến các thị trường tiêu thụ trên thế giới. Phương tiện vận chuyển chủ yếu hiện nay là các tàu LNG với tải trọng từ 170,000 m3 đến 260,000 m3, trong đó tải trọng phổ biến nhất là từ 155,000 m3 đến 170,000 m3.

Sau khi được vận chuyển đến nơi tiêu thụ, LNG được chuyển trở lại trạng thái khí khi đi qua thiết bị tái hóa khí sau đó được bơm vào đường ống vận chuyển đến các hộ tiêu thụ.

LNG được sử dụng tương tự như khí khô phục vụ cho nhu cầu khí của các nhà máy điện, hộ công nghiệp, khu đô thị. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới LNG còn được sử dụng làm nhiên liệu cho các phương tiện giao thông vận tải: tàu biển, tàu hỏa và xe vận tải nặng để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Ngoài ra, LNG có thể được chuyên chở bằng xe bồn, tàu hỏa, tàu ven biển có tải trọng từ 2,500-12,000 m3 đến những hộ tiêu thụ ở xa đường ống dẫn khí, các thị trường khu vực ven biển, các đảo ngoài khơi.

LNG được mua bán rất phổ biến trên thị trường quốc tế và trở thành nguồn năng lượng quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, các nước châu Âu và Bắc Mỹ… Các nước xuất khẩu LNG nhiều nhất thế giới thuộc khu vực Trung Đông, Đông Nam Á (Malaysia, Indonesia), Australia, Nga. Khu vực Đông Bắc Á là thị trường tiêu thụ LNG truyền thống với Nhật Bản là quốc gia nhập khẩu LNG lớn nhất thế giới với sản lượng mỗi năm khoảng 80 triệu tấn.

Hiện nay ở Việt Nam LNG được sử dụng chủ yếu làm nhiên liệu cho các nhà máy điện và các hộ tiêu thụ công nghiệp. Theo dự báo cân đối cung cầu khí, từ năm 2010 trở đi thị trường khí Việt Nam sẽ nằm trong tình trạng cung thấp hơn cầu.

Nhận thức rõ lợi ích cũng như tầm quan trọng của khí LNG đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Cũng như nhìn thấy lượng khí thiếu hụt tại khu vực Nam Bộ trong tương lai.

Cụ thể, theo dự báo của các chuyên gia năng lượng, lượng khí thiếu hụt vào năm 2015 là khoảng 3 tỷ m3 đến 2020-2025 ước tính lên đến 6 tỷ m3 và trên 15 tỷ m3 vào năm 2025. Do đó, việc đầu tư và phát triển khí LNG đang được Việt Nam thực hiện gấp rút thông qua ngay từ đầu năm 2012 với hàng loạt các dự án lớn như hệ thống cảng tiếp nhậnvà phân phối LNG, các đường ống dẫn khí đốt; Trung tâm điện lực Sơn Mỹ và các đường dây đồng bộ đấu nối với hệ thống điện quốc gia… nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng khí LNG của người dân.

Hiện nay, Việt Nam đã xây dựng được hệ thống đường ống dẫn khí ở khu vực phía Nam gồm 3 tuyến đường ống chính, với tổng chiều dài trên 1.000km; các nhà máy xử lý khí, và các kho cảng khí hóa lỏng LNG. Và Tổng Công ty Khí Việt Nam (PVGAS) là đơn vị duy nhất cung cấp khí LNG cho thị trường Việt Nam.

Theo đó, PVGAS đã đầu tư 500 triệu USD để triển khai dự án nhập khẩu LNG về Việt Nam nhằm đảm bảo nguồn cung cấp khí ổn định lâu dài, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ khí của nền kinh tế xã hội, nhất là nhu cầu sản xuất điện từ khí. Ngoài khí đốt nhập khẩu, việc sản xuất nhiên liệu tổng hợp từ khí tự nhiên đang được khuyến khích vì Việt Nam có nguồn nhiên liệu lớn cho sản xuất khí hóa lỏng.

Có thể nói, phát triển ngành công nghiệp khí LNG đang trở thành một nhân tố kinh tế kỹ thuật quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong các thập niên tới, nhằm mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường sinh thái và duy trì sự phát triển bền vững của đất nước.