Người tinh khôn xuất hiện
Người tinh khôn xuất hiện hình thành lên các chủng tộc với những đặc điểm và trí tuệ phát triển là một bước tiến dài hơn của loài người trong lịch sử.
1. Người tinh khôn xuất hiện ở đâu?
Thời kỳ bầy người nguyên thủy tương đương với thời đại đồ đá cũ sơ kỳ (từ đầu thời đại tứ kỷ của lịch sử trái đất đến khoảng cách đây bốn vạn năm), thời kỳ sinh trưởng của các giống người vượn Pi-tê-can-tơ-rôp, Xi-nan-tơ-rôp, Nê-an-đec-tan. Bước sang thời đại đồ đá cũ hậu kỳ (từ 40 đến 12 nghìn năm trước công nguyên) thì có thể nói quá trình biến hóa từ vượn đến người đã kết thúc. Lúc bấy giờ đã xuất hiện người tinh khôn (còn gọi là người Hô-mô-sa-pi-ên) hoàn toàn giống với người ở thời đại chúng ta về cấu tạo cơ thể cũng như về hình dáng bề ngoài.
Di cốt của người tinh khôn đó tìm thấy rải rác ở các miền thuộc Cựu lục địa và có thể chia làm 3 loại hình:
- Người Cơ rô- Ma-nhông (Cro-Magnon) tìm thấy ở một số các hang động ở Anh, ở Bỉ và nhất là ở Pháp (động Cơ-rô – Ma-nhông ở miền Tây Nam nước Pháp), bên cạnh các công cụ bằng đá, xương thú, ngà voi, tro bếp…
- Người Gơ-ri-man-di (Grimaldi) tìm thấy ở Bắc Ý, cũng xuất hiện gần đồng thời với người Cơ-rô – Ma-nhông.
- Người Sơn Đỉnh Động tìm thấy trong một động ở Chu Khẩu Điếm (Trung Quốc) với tất cả bảy bộ sọ và vài chục bộ xương cùng rất nhiều xương động vật và hàng trăm công cụ lao động.
2. Đặc điểm tiến hóa so với người vượn
Các nhà khoa học đem so sánh bộ sọ của các giống người vượn trung gian với bộ sọ người tinh khôn thì thấy có một sự tiến triển dần dần từ vượn đến người về mặt cấu tạo cơ thể với 5 đặc điểm như sau:
- Bộ sọ to dần về thể tích và trọng lượng.
- Xương hàm dưới nhô dần ra.
- Trán thẳng đứng dần không thoải về đằng trước.
- Xương sọ bớt dô ra đằng sau làm cho đầu tròn dần ra.
- Sống lông mày trên hốc mắt mất dần đi, khiến cho hình dáng đầu vượn ngày càng giống hình dáng đầu người.
Thời kỳ xuất hiện người tinh khôn cũng là thời kỳ bắt đầu hình thành các chủng tộc, do những điều kiện thiên nhiên của cuộc sống của con người trong thời nguyên thủy và do sự cư trú phân tán của họ tạo nên. Các chủng tộc chỉ khác nhau về những đặc điểm phụ và không căn bản như sự khác nhau về màu da, về hình dáng đôi mắt, đôi môi, về đường cong và chiều cao của sống mũi, về sự cấu tạo và màu sắc của tóc… Sự khác nhau về chủng tộc không liên quan gì đến khối lượng và cấu tạo của bộ não, và của hệ thống thần kinh, hoạt động tâm sinh lý của con người; cũng không quan hệ gì đến trí tuệ, tài năng, thể lực của con người.
3. Các chủng tộc người tinh khôn
Qua sự nghiên cứu của các nhà nhân loại học, người ta phân biệt 3 chủng tộc lớn:
- Đại chủng tộc Nê-gơ-rô-ô-xtơ-ra-lô-ít hay đại chủng Xích Đạo, ví như những người da đen Châu Phi, những người thổ dân châu Úc.
- Đại chủng Ơ-rô-pê-ô-ít hay đại chủng Âu – Á, ví như các dân tộc ở Châu Âu, Bắc Phi, Tiền Á, Bắc Ấn.
- Đại chủng Mông-gô-lô-ít hay đại chủng Á – Mỹ, ví như các dân tộc ở Trung Á và Bắc Á, Đông Á và Nam Á, thổ dân châu Mỹ người In-đi-an.
Giữa các chủng tộc lớn này, có những chủng tộc nhỏ trung gian, quá độ và trong mỗi một chủng tộc lớn có thể chia ra làm nhiều nhánh nhỏ hơn, mà sự khác nhau giữa các nhánh đó ít rõ rệt hơn. Trong quá trình phát triển của lịch sử, các chủng tộc thường sống trà trộn với nhau, nên không giống người nào là thuần túy cả.
4. Sự phát triển về kỹ thuật sản xuất và tổ chức xã hội
Sang hậu kỳ thời đại đồ đá cũ, loài người đã tiến thêm một bước dài hơn. Những di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ này chứng tỏ một trạng thái phát triển mạnh mẽ về mọi mặt: kỹ thuật sản xuất, sinh hoạt kinh tế, tổ chức xã hội và hình thái ý thức.
Trước hết, kỹ thuật chế tạo đồ đá so với trước có tiến bộ hơn. Ngoài cách ghè hoặc đẽo đá, người ta còn biết cách trau đá để làm cho công cụ có phần tinh xảo hơn. Xương, sừng thú và gỗ đá được dùng một cách rộng rãi. Nói chung, công cụ cũng như vũ khí ở thời này, về số lượng cũng như về hình loại và công dụng đều nhiều hơn, tốt hơn so với giai đoạn trước. Kết quả của sự phát triển kỹ thuật chế tạo công cụ và vũ khí là sự tiến bộ rõ rệt trong phương thức sinh hoạt, mà trước hết là sự tiến bộ của nghề săn bắn tập thể các loài thú lớn sống từng đàn như voi ma mút, ngựa rừng, hươu.
Lúc này đã xuất hiện sự phân công tự nhiên giữa nam, nữ. Đàn ông lo việc săn bắt, đàn bà lo việc hái lượm. Điều đó khiến cho người nguyên thủy được đảm bảo chắc chắn hơn về mặt tư liệu sinh hoạt và có khả năng chuyển sang đời sống định cư tương đối. Nhà ở kiểu hầm đất có vách đá đã xuất hiện, thay thế cho lối cư trú trong hang động ngày trước. Và cùng với nhà ở, quần áo cũng đã được sáng chế bằng cách dùng kim xương khâu da thú để che chỗ ở hoặc che thân. Đó là trạng thái sinh hoạt của người tinh khôn, ở thời kỳ mà khảo cổ học gọi là thời kỳ văn hóa Ơ-ri-nhăc Xô-lu-xtơ-rê, thuộc hậu kỳ thời đại đồ đã cũ.
Người tinh khôn xuất hiện – LichSu.Org