Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ là một tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Irắc, Cô oét, Arập Xêút và Vênêxuêla tại Hội nghị Batđa. Vậy OPEC là gì? Chức năng và vai trò của tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa OPEC ra sao?
Tổng đài Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.6568
1. OPEC là gì?
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) là một tổ chức liên chính phủ được thành lập tại Hội nghị Baghdad năm 1960. Năm nước thành viên sáng lập của OPEC là Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela. OPEC là một tổ chức liên chính phủ thường trực của 14 quốc gia đang phát triển xuất khẩu dầu mỏ, là tổ chức điều phối và thống nhất các chính sách dầu khí của các quốc gia thành viên.
OPEC là tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela trong hội nghị tại Bagdad (10-14/9/1960). Các thành viên Qatar (1961), Libya (1962), UAE (1967), Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador (1973-1992), Indonesia (1962-2008) và Gabon (1975-1994) cũng từng là thành viên của OPEC. Trong 5 năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Viên, Áo từ tháng 9/1965.
Trong năm năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Wien, Áo từ tháng 91965. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng 3/4 trữ lượng dầu thế giới. OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu lửa của các nước thành viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu. Hội nghị các bộ trưởng phụ trách năng lượng và dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trường dầu mỏ và đề ra các biện pháp phù hợp để bảo đảm việc cung cấp dầu.
Bộ trưởng các nước thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một nhiệm kỳ. Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập của OPEC là ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế vì các quyết định của OPEC.
Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các cơn khủng hoảng dầu, OPEC chẳng những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài. Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan hiếm hoặc dư dầu giả tạo nhằm thông qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel) luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất co các thành viên.
OPEC tiếng Anh là Organization of Petroleum Exporting Countries
The Organization of the Petroleum Exporting Countries (OPEC) is a permanent, intergovernmental Organization, created at the Baghdad Conference on September 10-14, 1960, by Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia and Venezuela. The five Founding Members were later joined by: Qatar (1961) – terminated its membership in January 2019; Indonesia (1962) – suspended its membership in January 2009, reactivated it in January 2016, but decided to suspend it again in November 2016; Libya (1962); United Arab Emirates (1967); Algeria (1969); Nigeria (1971); Ecuador (1973) – suspended its membership in December 1992, reactivated it in October 2007, but decided to withdraw its membership effective 1 January 2020; Angola (2007); Gabon (1975) – terminated its membership in January 1995 but rejoined in July 2016; Equatorial Guinea (2017); and Congo (2018). OPEC had its headquarters in Geneva, Switzerland, in the first five years of its existence. This was moved to Vienna, Austria, on September 1, 1965.
OPEC’s objective is to co-ordinate and unify petroleum policies among Member Countries, in order to secure fair and stable prices for petroleum producers; an efficient, economic and regular supply of petroleum to consuming nations; and a fair return on capital to those investing in the industry.
Xem thêm: ASEAN là gì? Chức năng và vai trò của hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN
2. Mục tiêu hoạt động của OPEC:
Mục tiêu hoạt động chính thức của OPEC được ghi trong Qui chế Thành lập của tổ chức là điều phối và thống nhất chính sách khai thác dầu giữa các nước thành viên nhằm ổn định giá dầu thế giới ở mức công bằng và ổn định cho các nước sản xuất, đảm bảo nguồn cung dầu hiệu quả, kinh tế và thường xuyên cho các nước tiêu dùng, đảm bảo mức lợi nhuận công bằng cho các nhà đầu tư, qua đó bảo vệ lợi ích của các nước thành viên.
Nói cách khác, về bản chất, OPEC chính là một cartel (liên minh kinh tế) giữa các nước sản xuất dầu lửa nhằm duy trì một cơ cấu giá có thể phản ánh được lợi ích của các nước thành viên thông qua việc phối hợp định giá và xây dựng hạn ngạch sản xuất cho các nước thành viên.
Xem thêm: NATO là gì? Giới thiệu về Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)
3. Lịch sử hình thành và phát triển của OPEC:
Vào ngày 10-14/9/1960, theo sáng kiến của Bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Venezuelan Juan Pablo Pérez Alfonso và bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Ả Rập Xê Út Abdullah al-Tariki, các chính phủ Iraq, Iran, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela nhóm họp tại Baghdad để thảo luận các phương án nhằm tăng giá dầu thô sản xuất ở các quốc gia này.
OPEC được thành lập nhằm thống nhất và phối hợp các chính sách về dầu mỏ của các quốc gia thành viên. Giữa năm 1960 và 1975, tổ chức này đã mở rộng bao gồm các thành viên mới như Qatar (1961), Indonesia (1962), Libya (1962), Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (1967), Algérie (1969), và Nigeria (1971). Ecuador và Gabon trước đây từng là thành viên của OPEC, nhưng Ecuador đã rút lui ngày 31/12/1992 do không thể chi trả 2 triệu đô la phí thành viên và có nhu cầu sản xuất nhiều dầu hơn chỉ tiêu mà OPEC cho phép, dù vậy họ gia nhập trở lại vào tháng 10/2007. Các mối quan tâm tương tự cũng đã thúc đẩy Gabon ngừng làm thành viên vào tháng 1/1995. Angola gia nhập đầu năm 2007. Na Uy và Nga tham dự các hội nghị của OPEC với tư cách là quan sát viên.
Tháng 5/2008, Indonesia tuyên bố rời khỏi OPEC khi hết hạn thành viên và vào cuối năm đó, nước này trở thành quốc gia nhập khẩu dầu và không thể đạt được chỉ tiêu sản xuất dầu. 1 bản tuyên bố do OPEC đưa ra ngày 10/9/2008 đã xác nhận Indonesia rút khỏi tổ chức này, trong đó có đoạn “thật tiếc là chúng tôi phải chấp nhận mong muốn của Indonesia để dừng tư cách thành viên trong Tổ chức OPEC và hy vọng rằng Quốc gia này sẽ sẵn sàng gia nhập trở lại trong một tương lai không xa.”
Xem thêm: UN là gì? Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Liên hợp quốc?
4. Công cụ điều chỉnh sản lượng dầu của OPEC:
Công cụ chính được OPEC sử dụng để điều chỉnh sản lượng dầu bán ra thị trường của các nước thành viên chính là hạn ngạch sản xuất. Đại diện các quốc gia thành viên nhóm họp mỗi năm 2 lần nhằm thiết lập chính sách sản xuất chung trong tương lai dựa trên dự báo toàn cầu về cung và cầu dầu lửa. Mỗi hội nghị OPEC đều đặt ra hạn ngạch sản xuất mới, chia theo tỉ lệ tương ứng cho các quốc gia thành viên.
Cam kết của các nước thành viên đối với hạn ngạch sản xuất không phải lúc nào cũng nhất quán, và một số nước thành viên OPEC, đặc biệt là những nước có sản lượng nhỏ, thường xuyên vượt quá hạn ngạch được phép của mình.
Các thành viên có sản lượng lớn, đặc biệt là Ả Rập Xê Út, thường phải cắt giảm sản lượng của mình để bù cho việc sản xuất quá hạn ngạch của các thành viên khác. Việc giá dầu sụt giảm giữa những năm 1980 và cuối những năm 1990 một phần là do các thành viên thiếu cam kết trong việc tuân thủ hệ thống hạn ngạch.
Xem thêm: WTO là gì? Chức năng, nhiệm vụ và vai trò của Tổ chức mậu dịch quốc tế WTO
5. OPEC trong giai đoạn hiện nay:
Ngành công nghiệp dầu mỏ ngày nay mang những đặc điểm của một mô hình đa nhân tố. Có một số nhân tố quan trọng, song không một nhân tố nào có thể một mình duy trì được sự ổn định của thị trường. Tầm quan trọng của OPEC đã suy giảm sau giai đoạn được xem là đỉnh cao của tổ chức này vào giữa những năm 1970, nhưng chưa có một tổ chức nào có đủ khả năng để thay thế nó.
Sự suy giảm về tầm quan trọng của OPEC cũng đi kèm với nỗ lực chung của thế giới trong việc tiết kiệm năng lượng và tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế. Trong cơ cấu doanh nghiệp của ngành, các công ty quốc doanh hiện giữ vai trò chủ đạo. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (US Energy Information Administration), tính đến thời điểm năm 2007, xấp xỉ 78% sản lượng dầu thế giới do 50 công ty sản xuất, 70% số sản lượng này được sản xuất bởi các công ty dầu mỏ quốc doanh.
Các hoạt động chính trong lĩnh vực dầu mỏ của OPEC
– 14 tháng 9 năm 1960: thành lập tổ chức theo đề xuất của Vênêxuêla tại Bátđa.
– 1965: Dời trụ sở về Viên. Các thành viên thống nhất một chính sách khai thác chung để bảo vệ giá.
– 1970: Nâng giá dầu lên 30%, nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công ty khai thác dầu lên 55% của lợi nhuận.
– 1971: Nâng giá dầu sau khi thương lượng với các tập đoàn khai thác. Tiến tới đạt tỷ lệ quốc gia hóa 50% các tập đoàn.
– 1973: Tăng giá dầu tăng từ 2,89 USD một thùng lên 11,65 USD. Thời gian này được gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lượng dầu của thế giới.
– 1974 đến 1978: tăng giá dầu 5-10% hầu như mỗi nửa năm một lần để chống lại việc USD bị lạm phát.
– 1979: Khủng hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo giá dầu từ 15,5 USD một thùng được nâng lên 24 USD. Libia, Angiêri và Irắc thậm chí đòi đến 30 USD cho một thùng.
– 1980: Đỉnh điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybi đòi 41 USD, Ả Rập Saudi 32 USD và các nước thành viên còn lại 36 USD cho một thùng dầu.
– 1981: Lượng tiêu thụ dầu giảm do các nước công nghiệp lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá dầu cao, nhiều nước trên thế giới đầu tư vào các nguồn năng lượng khác. Lượng tiêu thụ dầu thế giới giảm 11% trong thời gian từ 1979 đến 1983, thị phần dầu của OPEC trên thị trường thế giới giảm xuống còn 40%.
– 1982: Quyết định giảm lượng sản xuất tuy được thông qua nhưng lại không được các thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33% và vào năm 1985 còn 30% trên tổng số lượng khai thác dầu trên thế giới. Lượng khai thác dầu giảm xuống đến mức thấp kỷ lục là 17,34 triệu thùng một ngày.
– 1983: Giảm giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD một thùng. Giảm hạn ngạch khai thác từ 18,5 triệu xuống 16 triệu thùng một ngày.
– 1986: Giá dầu rơi xuống đến dưới 10 USD một thùng do sản xuất thừa và do một số nước trong OPEC giảm giá dầu.
– 1990: Giá dầu được nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD một thùng. Nhờ vào chiến tranh vùng Vịnh giá dầu đạt ở mức cao.
– 2000: Giá dầu đã dao động mạnh, vượt qua cả hai mức thấp và cao nhất trong lịch sử. Nếu trong quý I, chỉ với 9 USD người ta cũng có thể mua được một thùng dầu thì trong quý IV giá đã vượt trên 37 USD một thùng. Các thành viên của OPEC đồng ý giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.
– 2005: OPEC quyết định giữ nguyên lượng khai thác 27 triệu thùng. Các thành viên đã nhất trí “tạm ngưng” không giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.
Sau một thời gian dài từ năm 2007, giá dầu mỏ liên tục tăng, có thời điểm đạt mức xấp xỉ 150 USD/thùng, hiện nay (8-2008) giá dầu đang đứng ở mức trên dưới 110 USD/thùng.