Thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động, một số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị… đã và đang ra sức tuyên truyền các luận điệu sai trái, nhằm xuyên tạc, bôi nhọ, bóp méo lịch sử. Họ mưu toan phủ nhận ý nghĩa thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giành độc lập, tự do cho đất nước, dân tộc của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhất là trong giai đoạn cách mạng từ 1945 đến 1975.
Quan điểm mà họ đưa ra là: “Các cuộc kháng chiến do Đảng ta lãnh đạo là “không cần thiết”, là “vô ích và tốn xương máu”, vì có thể dùng con đường hòa bình, thương lượng để giành độc lập như một số nước đã làm. Họ cố tình xuyên tạc: “Đảng ta tiến hành các cuộc kháng chiến, thực chất là thực hiện một “cuộc chiến tranh ý thức hệ”, “chiến tranh ủy nhiệm” theo sự “sắp đặt” của một số nước lớn, nhằm giúp chủ nghĩa cộng sản lan tràn và chiếm vị trí độc tôn trên thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam dùng chiến tranh làm phương tiện để thống trị…”.
Một số quan điểm khác, không phân biệt được tính chất chính nghĩa của các cuộc chiến tranh thì tỏ ra “ngậm ngùi” về “nỗi buồn chiến tranh”, vì nó đem lại quá nhiều mất mát và hi sinh, mà “kẻ thắng cũng như người thua đều không đạt được gì”.
Những luận điệu trên không có gì mới, vẫn chỉ là tiếp tục các thủ đoạn “đánh tráo giá trị”, “lẫn lộn trắng đen” nhằm phủ nhận sự hi sinh xương máu của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Thực tế chứng minh, nhân dân Việt Nam luôn khao khát độc lập, tự do, yêu chuộng hòa bình. Đó là truyền thống từ lịch sử nghìn đời của dân tộc ta. Chính các thế lực đế quốc, thực dân với quân đội nhà nghề và sức mạnh quân sự, kinh tế lớn gấp nhiều lần chúng ta, luôn mưu toan dùng vũ lực áp đặt ách thống trị, đối với đất nước ta và nhân dân ta. Nhân dân Việt Nam, không có con đường nào khác, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, anh dũng, kiên cường chống ngoại xâm, đánh đổ ách xâm lược, giành độc lập tự do.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất quán chủ trương hòa bình, hòa hoãn, tìm mọi cách để tránh một cuộc chiến tranh với Pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Nhân dân Việt Nam không muốn đổ máu, nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình”. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành nhiều hoạt động thiện chí như: Thương lượng với đại diện Trung Hoa (Quốc dân đảng) và Pháp, kí Hiệp định sơ bộ (6-3-1946), tiến hành đàm phán ở Đà Lạt và Phông-ten-nơ-blô (Pháp) để kí Tạm ước (14-9-1946), đồng thời kêu gọi các nước Liên Xô, Anh, Mỹ… tham gia giải quyết hòa bình để chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương… Nhưng “Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa”. Toàn dân tộc ta đã đứng lên hưởng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết bảo vệ nền độc lập, tự do. Suốt 9 năm trường kì kháng chiến, chúng ta đã làm nên chiến thắng “Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, luận điệu của các thế lực phản động về cái gọi là “chiến tranh ủy nhiệm” cũng là sự đánh lộn tính chất của cuộc chiến tranh chính nghĩa với phi nghĩa, cách mạng với phản cách mạng. Việc đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam nằm trong mưu đồ chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, hòng ngăn chặn sự phát triển của CNXH và đánh đòn phủ đầu phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao, mà Việt Nam trở thành lá cờ đầu. Nước Mỹ đã trải qua 5 đời tổng thống, huy động gần 6 triệu lượt binh sĩ (lúc cao nhất lên tới 542.000 quân), chi phí hàng trăm tỉ đô-la, ném xuống Việt Nam hàng triệu tấn bom, đạn, rải hàng chục triệu lít chất độc hóa học, sử dụng những loại vũ khí, kĩ thuật tối tân, dã man nhất, chỉ trừ vũ khí hạt nhân. Nhân dân Việt Nam với khát vọng độc lập dân tộc và CNXH, vì tự do, hòa bình, phải trải qua 30 năm kháng chiến trường kì với biết bao hi sinh, gian khổ mới đi đến thắng lợi trọn vẹn, kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH.
Dân tộc Việt Nam luôn khát khao, yêu chuộng hòa bình, mong muốn được sống trong độc lập tự do, bình đẳng, bác ái cùng các dân tộc khác trên thế giới. Song chính mưu đồ xâm lược, sự ngoan cố, hiếu chiến… của chủ nghĩa thực dân và đế quốc đã buộc toàn dân tộc ta phải đứng lên tiến hành hai cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ, chứ đâu phải chúng ta “hiếu chiến” hoặc Đảng ta “muốn dùng chiến tranh” để giành độc quyền thống trị, như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động. Chính Mắc Na-ma-ra – cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ từng thú nhận: “Mỹ đã nhìn nhận sai về niềm khao khát và quyết tâm chiến đấu giành tự do và dân chủ của người Việt Nam; đã đánh giá thấp sức mạnh của cuộc đấu tranh hi sinh cho lí tưởng và các giá trị của CNXH…”.
Mỗi chúng ta cần đề cao cảnh giác, nhận rõ mưu đồ, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch âm mưu xóa nhòa tính chất cuộc chiến tranh – một bên là chính nghĩa và một bên là phi nghĩa – thậm chí xóa nhòa ranh giới giữa một dân tộc yêu nước, quyết đứng lên bảo vệ độc lập, tự do với các thế lực hiếu chiến, xâm lược.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ta kéo dài suốt 30 năm, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù phải trải qua nhiều mất mát, hi sinh, song đã giành thắng lợi hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc cả trong nước và trên trường quốc tế. Qua các cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ, Việt Nam trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của lòng khát khao yêu chuộng hòa bình, công lí. Nhờ sự bền bỉ đấu tranh và đổ máu hi sinh của các LLVT và toàn dân, chúng ta mới giành được độc lập, tự do trọn vẹn, nước nhà thống nhất, giang sơn thu về một mối, cả nước đi lên CNXH, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
QUANG THANH và ANH QUÂN