Sâm Ngọc Linh (danh pháp khoa học: Panax vietnamensis) là một loài cây thuộc họ Cam tùng (Araliaceae), còn gọi là sâm Việt Nam, sâm Khu Năm (sâm K5), sâm trúc (sâm đốt trúc, trúc tiết nhân sâm) củ ngải rọm con hay cây thuốc giấu, là loại sâm quý được tìm thấy tại miền Trung Trung Bộ Việt Nam, mọc tập trung ở các huyện miền núi Ngọc Linh thuộc huyện Đăk Tô tỉnh Kon Tum, huyện Nam Trà My tỉnh Quảng Nam. Ngoài Ngọc Linh, sâm còn phân bố tại núi Ngọc Lum Heo thuộc xã Phước Lộc, huyện Phước Sơn và còn có thể có ở đỉnh Ngọc Am tỉnh Quảng Nam theo những kết quả điều tra mới nhất. Trên độ cao 1.200 đến 2.100m, sâm Ngọc Linh mọc dày thành đám dưới tán rừng dọc theo các suối ẩm trên đất nhiều mùn
Sâm Ngọc Linh cũng là loại nhân sâm thứ 20 được tìm thấy trên thế giới. Theo kết quả nghiên cứu từ năm 1978 của Bộ Y tế Việt Nam, phần thân rễ của cây sâm Ngọc Linh Việt Nam chứa 26 hợp chất saponin có cấu trúc hóa học đã biết và 24 saponin có cấu trúc mới không có trong các loại sâm khác, trong khi sâm Triều Tiên có khoảng 25 saponin. Những kết quả nghiên cứu, phân lập thành phần hóa học mới nhất được công bố còn kéo dài danh sách saponin của sâm Ngọc Linh hơn nữa, lên tổng cộng 52 loại. Như vậy, sâm Việt Nam là một trong những loại sâm có hàm lượng saponin nhiều nhất, tương tự một số cây sâm quý đã từng được nghiên cứu sử dụng từ lâu trên thế giới. Hợp chất hóa học đa dạng và tác dụng thực tiễn đối với sức khỏe của con người khiến sâm Ngọc Linh hiện nay được bán trên thị trường với giá càng ngày càng cao, thậm chí còn cao hơn sâm Triều Tiên nhiều lần
1. Lịch sử phát hiện
Trước khi có sự phát hiện từ phía các nhà khoa học, sâm Ngọc Linh đã được các đồng bào dân tộc thiểu số Trung Trung bộ Việt Nam, đặc biệt là dân tộc Xê Đăng, sử dụng như một loại củ rừng, mà họ gọi là củ ngải rọm con hay cây thuốc giấu, chữa nhiều loại bệnh theo các phương thuốc cổ truyền. Dựa trên những thông tin lưu truyền trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Quảng Nam, Kon Tum về một loại củ quý hiếm trên núi Ngọc Linh có tác dụng tốt đối với sức khỏe con người, và do nhu cầu của kháng chiến đã khiến ngành dược khu Trung Trung Bộ quyết phải tìm ra cây sâm chi Panax tại miền Trung, mặc dù trước đó nhiều nhà khoa học cho rằng chi Panax chỉ có ở miền Bắc
Năm 1973, khu Y tế Trung Trung bộ cử một tổ 4 cán bộ do dược sĩ Đào Kim Long làm trưởng đoàn, kỹ sư Nguyễn Bá Hoạt, dược sĩ Nguyễn Châu Giang, dược sĩ Trần Thanh Dân là thành viên, đi điều tra phát hiện cây sâm theo hướng chân núi Ngọc Linh thuộc huyện Đắc Tô tỉnh Kon Tum. Khi đoàn lên tỉnh Kon Tum, Ban Dân y Kon Tum cử thêm dược tá Nguyễn Thị Lê trợ giúp cho đoàn, dẫn đường lên núi Ngọc Linh. Sau nhiều ngày vượt suối băng rừng, đến 9 giờ sáng ngày 19 tháng 03 năm 1973, ở độ cao 1.800 mét so với mặt biển, đoàn đã phát hiện hai cây sâm đầu tiên và ngay buổi chiều cùng ngày đã phát hiện được một vùng sâm rộng lớn thuộc phía Tây núi Ngọc Linh. Sau 15 ngày nghiên cứu toàn diện về hình thái, sinh thái, quần thể, quần lạc, phân bố, di cư và phát tán, dược sĩ Đào Kim Long đã xác định núi Ngọc Linh là quê hương của cây sâm mới, đặc biệt quý hiếm, chưa từng xuất hiện tại bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Theo đánh giá của Tiến sĩ Trần Chí Liêm, Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Nam: đây là cống hiến quan trọng cho khoa học, bổ sung tri thức mới về vùng phân bố chi Panax xuống tới vĩ tuyến 15 và bổ sung cho chi Panax họ Araliaceae một loài mới.
Sau khi sâm được phát hiện, Khu uỷ Khu 5 đã chỉ đạo Ban Dân y bí mật bảo vệ và khai thác, giao cho xưởng Dược Trung Trung Bộ chế biến làm thuốc phục vụ cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; đồng thời gửi mẫu ra Bộ Y tế, Viện Dược liệu Hà Nội nghiên cứu. Những năm sau khi hòa bình lập lại, tháng 10 năm 1978 một tổ công tác thứ hai lên vùng núi Ngọc Linh với nhiệm vụ ước lượng sơ bộ diện tích sâm mọc. Kết quả chuyến đi là việc tìm ra được một vùng dài hàng chục kilômét, có trữ lượng khoảng 6.000-7.000 cây sâm mọc dày đặc với mật độ từ 1 mét vuông một cây đến 7,8 mét vuông một cây.
Nǎm 1979, Trung tâm Y tế Quảng Nam tổ chức điều tra ở 5 xã của huyện Trà My với sự giúp đỡ của Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả đợt điều tra là việc tìm thấy 1.337 cây trong 211 ô tiêu chuẩn. Trọng lượng trung bình thân rễ sâm là 5,26 gam; số thân có trọng lượng trên 25 gam là 7,39% và số thân rễ có trên 10 sẹo (ước tính trên 8 năm tuổi) là 36,9%. Đợt điều tra này đã thu được 1 thân rễ có tới 52 sẹo (ước tính cây trên 50 năm tuổi), đường kính 1,2 cm, tuy đây chưa phải là thân rễ sống lâu nhất. Trong những đợt tìm kiếm, điều tra về sau còn phát hiện ra cây khoảng 82 năm tuổi có rễ, củ và thân rễ dài hơn nửa mét.
2. Danh pháp khoa học
Ngày 8 tháng 6 năm 1973 tại văn phòng Ban Dân y Khu 5 dược sĩ Đào Kim Long, chủ nhiệm đề tài nghiên cứu sâm Ngọc Linh đã nêu rõ đặc điểm hình thái, sinh thái học, quần thể, thảm thực vật, khả năng thích nghi, cách phát tán, khả năng tái sinh của cây nhân sâm này, kèm theo báo cáo có các tiêu bản mẫu cây ép khô, ảnh chụp và 3kg sâm đã phơi khô. Dược sĩ Đào Kim Long đã đặt tên khoa học của cây sâm Ngọc Linh này là Panax articulatus KL Dao (trong kháng chiến để giữ bí mật nên thường gọi là Sâm K5), hay Panax articulatus Kim Long Đào theo tên người phát hiện. 12 năm sau, tên Nhân sâm Việt Nam và tên khoa học là Panax vietnamesis Ha et Grushy, họ Ngũ gia Araliaceae, được công bố tại Viện Thực vật Kamarov (Liên Xô cũ) năm 1985, do Hà Thị Dung và I. V. Grushvistky đặt tên. Áp dụng Quy tắc quốc tế về danh pháp thực vật công bố năm 1994 (ICBN – Tokyo code), điều 1, mục 3 phần C, danh pháp khoa học của sâm Ngọc Linh có thể được nối tên của người thứ hai công bố với tên người thứ nhất qua chữ ex, và khi đó tên khoa học của cây nhân sâm Ngọc Linh được viết hợp pháp theo luật quốc tế hiện nay sẽ phải là Panax articulatus KL Dao (1973) ex Ha et Gruskv (1985).
3. Đặc điểm
Cây sâm được phát hiện ở độ cao từ 1.200m trở lên (có tài liệu cho biết cao độ tìm thấy sâm Ngọc Linh là khoảng 1.500m), đạt mật độ cao nhất ở khoảng từ 1.700-2.000m dưới tán rừng già, và cho tới nay chỉ có hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam là có cây sâm này. Sâm mọc tập trung dưới chân núi Ngọc Linh, một ngọn núi cao 2.578m với lớp đất vàng đỏ trên đá granit dày trên 50cm, có độ mùn cao, tơi xốp và rừng nguyên sinh còn rộng, nên được gọi là sâm Ngọc Linh, tuy những nghiên cứu thực địa mới nhất cho thấy sâm còn mọc cả ở núi Ngọc Lum Heo thuộc xã Phước Lộc, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, đỉnh núi Ngọc Am thuộc Quảng Nam, Đắc Glây thuộc Kontum, núi Langbian ở Lạc Dương tỉnh Lâm Đồngcũng rất có thể có loại sâm này. Đây là một loại cây thân thảo sống lâu năm, cao 40cm đến 100cm, thoạt nhìn rất giống nhân sâm Triều Tiên, nhưng nhìn kỹ sẽ thấy thân rễ có sẹo và các đốt như đốt trúc do thân khí sinh rụng hàng năm để lại.
Sâm Ngọc Linh có dạng thân khí sinh thẳng đứng, màu lục hoặc hơi tím, nhỏ, có đường kính thân độ 4-8mm, thường tàn lụi hàng năm tuy thỉnh thoảng cũng tồn tại một vài thân trong vài năm. Thân rễ có đường kính 1-2cm, mọc bò ngang như củ hoàng tinh trên hoặc dưới mặt đất độ 1-3cm, mang nhiều rễ nhánh và củ. Các thân mang lá và tương ứng với mỗi thân mang lá là một đốt dài khoảng 0,5-0,7cm, tuy sâm chỉ có một lá duy nhất không rụng suốt từ năm thứ 1 đến năm thứ 3 và chỉ từ năm thứ 4 trở đi mới có thêm 2 đến 3 lá]. Trên đỉnh của thân mang lá là lá kép hình chân vịt mọc vòng với 3-5 nhánh lá. Cuống lá kép dài 6-12mm, mang 5 lá chét, lá chét ở chính giữa lớn hơn cả với độ dài 12-15 cm, rộng 3-4 cm. Lá chét phiến hình bầu dục, mép khía răng cưa, chóp nhọn, lá có lông ở cả hai mặt. Cây 4-5 năm tuổi có hoa hình tán đơn mọc dưới các lá thẳng với thân, cuống tán hoa dài 10-20 cm có thể kèm 1-4 tán phụ hay một hoa riêng lẻ ở phía dưới tán chính. Mỗi tán có 60-100 hoa, cuống hoa ngắn 1-1.5 cm, lá đài 5, cánh hoa 5, màu vàng nhạt, nhị 5, bầu 1 ô với 1 vòi nhụy. Quả mọc tập trung ở trung tâm của tán lá, dài độ 0,8cm-1cm và rộng khoảng 0,5cm-0,6cm, sau hai tháng bắt đầu chuyển từ màu xanh đến xanh thẫm, vàng lục, khi chín ngả màu đỏ cam với một chấm đen không đều ở đỉnh quả. Mỗi quả chứa một hạt, một số quả chứa 2 hạt và số quả trên cây bình quân khoảng 10 đến 30 quả.
Mọc dưới tán rừng ẩm, nhiều mùn, thích hợp với nhiệt độ ban ngày từ 20°C-25°C, ban đêm 15°C-18°C, sâm Ngọc Linh có thể sống rất lâu, thậm chí trên 100 năm, sinh trưởng khá chậm. Bộ phận dùng làm thuốc chủ yếu là thân rễ, củ và ngoài ra cũng có thể dùng lá và rễ con. Vào đầu tháng 1 hàng năm, sâm xuất hiện chồi mới sau mùa ngủ đông, thân khí sinh lớn dần lên thành cây sâm trưởng thành có 1 tán hoa. Từ tháng 4 đến tháng 6, cây nở hoa và kết quả. Tháng 7 bắt đầu có quả chín và kéo dài đến tháng 9. Cuối tháng 10, phần thân khí sinh tàn lụi dần, lá rụng, để lại một vết sẹo ở đầu củ sâm và cây bắt đầu giai đoạn ngủ đông hết tháng 12. Chính căn cứ vào vết sẹo trên đầu củ mỗi mùa đông đến mà người ta có thể nhận biết cây sâm bao nhiêu tuổi, phải ít nhất 3 năm tuổi tức trên củ có một sẹo (sau 3 năm đầu sâm chỉ rụng một lá) mới có thể khai thác, khuyến cáo là trên 5 năm tuổi. Mùa đông cũng là mùa thu hoạch tốt nhất phần thân rễ của sâm.
4. Dược tính
Từ năm 1973 đến nay, đã có nhiều cơ quan, nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu về sâm Ngọc Linh, và gần 50 nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ, tiến sĩ từ các công trình nghiên cứu về loài cây quý hiếm này.Trong hai năm 1974 và 1975, Viện Dược liệu thuộc Bộ Y tế nghiên cứu thấy thành phần saponin triterpen của tam thất, nhân sâm và sâm Ngọc Linh có 9 hoặc 11 chất có Rf ngang nhau, màu giống nhau ở hai hệ dung môi khác nhau. Theo đánh giá của Nguyễn Minh Đức, Võ Duy Huấn trong nǎm 1994 thì từ sâm Ngọc Linh đã chiết được 50 hợp chất, xác định cấu trúc hóa học cho thấy 26 hợp chất có cấu trúc đã biết (thường thấy ở sâm Triều Tiên, sâm Mỹ, sâm Nhật) và 24 saponin pammaran có cấu trúc mới không bắt gặp tại các loại sâm khác trên thế giới. Sâm Ngọc Linh chứa chủ yếu các saponin triterpen, nhưng cũng là một trong những cây sâm có hàm lượng saponin khung pammaran cao nhất (khoảng 12-15%) và số lượng saponin nhiều nhất so với các loài khác của chi Panax. Ngoài ra trong sâm Ngọc Linh còn có 14 axít béo, 16 axít amin (trong đó có 8 axít amin không thay thế được) và 18 nguyên tố đa lượng, vi lượng.
Những kết quả nghiên cứu mới nhất bổ sung thêm danh sách saponin và axít amin dài hơn nữa. Theo tiến sĩ Nguyễn Bá Hoạt cán bộ Viện Dược liệu thì về mặt hoá học, thân rễ và rễ củ sâm Ngọc Linh hiện nay (2007) đã phân lập được 52 saponin trong đó 26 sanopin thường thấy ở sâm Triều Tiên, sâm Mỹ, sâm Nhật. Trong lá và cọng đã phân lập được 19 saponin pammaran, trong đó có 8 saponin có cấu trúc mới. Đã xác định được trong sâm Ngọc Linh 17 axít amin, 20 chất khoáng vi lượng và hàm lượng tinh dầu là 0,1%.
5. Tác dụng đối với sức khỏe
Trước khi có những nghiên cứu kỹ lưỡng về tác dụng đối với sức khỏe của sâm Ngọc Linh, sâm đã được các dân tộc thiểu số Việt Nam, như người Xê Đăng, dùng như một loại thuốc trong những bài thuốc cổ truyền cầm máu, lành vết thương, làm thuốc bổ, sốt rét, đau bụng, phù thũng. Theo tiến sĩ Nguyễn Bá Hoạt, Phó viện trưởng Viện Dược liệu Việt Nam, những kết quả nghiên cứu dược lý thực nghiệm sâm Ngọc Linh đã chứng minh tác dụng chống stress vật lý, stress tâm lý và trầm cảm, kích thích hệ miễn dịch, chống ôxi hóa, lão hóa, phòng chống ung thư, bảo vệ tế bào gan. Nghiên cứu dược lý lâm sàng của sâm Ngọc Linh cũng cho kết quả tốt: bệnh nhân ăn ngon, ngủ tốt, lên cân, tăng thị lực, hoạt động trí tuệ và thể lực cải thiện, gia tăng sức đề kháng, cải thiện các trường hợp suy nhược thần kinh và suy nhược sinh dục, nâng cao huyết áp ở người bị huyết áp thấp. Ngoài những tác dụng như tiến sĩ Nguyễn Bá Hoạt nói trên, theo dược sĩ Đào Kim Long, sâm Ngọc Linh có những tính năng tuyệt hảo như tăng lực, phục hồi sự suy giảm chức năng giúp cho tình trạng của cơ thể trở lại bình thường; kháng các độc tố gây hại tế bào, giúp kéo dài sự sống của tế bào và tăng các tế bào mới. Đặc biệt, sâm Ngọc Linh có những tính năng mà sâm Triều Tiên và sâm Trung Quốc không có là tính kháng khuẩn, chống trầm cảm, giảm lo âu, chống ôxi hóa, và hiệp lực tốt với thuốc kháng sinh, thuốc trị bệnh tiểu đường.
Trạm Nghiên cứu Dược liệu tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng (trước đây) và Xí nghiệp Dược phẩm Đà Nẵng, trong bước đầu thực hiện bào chế sản phẩm thành dược liệu có giá trị thương mại, đã chế ra “Tinh sâm quy Ngọc Linh”, “Sâm quy mật ong” v.v. có chứa sâm Ngọc Linh.
6. Điều kiện tự nhiên vùng phân bố Sâm Ngọc Linh
Sâm Việt Nam (Sâm Ngọc Linh) hiện đang phân bố trên vùng sinh thái hẹp, quanh đỉnh núi Ngọc Linh, dưới các tán rừng nguyên sinh thuộc địa phận của 3 huyện là: Nam Trà My (Quảng Nam), Đắk Glei và Tu Mơ Rông (Kon Tum). Vùng sinh trưởng và phát triển của sâm Ngọc Linh nằm hoàn toàn trên dãy núi Ngọc Linh, có tọa độ địa lý trong khoảng từ 14° 44’ đến 15° 13’ vĩ độ Bắc và từ 107° 45’ đến 108° 10’ kinh độ Đông, đây cũng là giới hạn xa nhất về phía Nam (trong khoảng15° vĩ Bắc) của bản đồ phân bố chi Panax L. trên Thế giới. Vùng trồng sâm Việt Nam (sâm Ngọc Linh) có các đặc điểm khí hậu đặc thù như sau:
Tổng lượng mưa trung bình năm của vùng sâm là từ 2.600 – 3.200mm. Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 15 -18,5 0 c. Tổng lượng bốc hơi trung bình năm từ 670 – 770 mm. Độ ẩm trung bình từ 85,5 – 87,5 %.
Vùng trồng Sâm Ngọc Linh hầu hết nằm trong các đai rừng phòng hộ với mật độ che phủ đạt trên 80%. Bên cạnh đó, vùng trồng Sâm Ngọc Linh cũng có những đặc thù thổ nhưỡng sau:
Sâm tự nhiên và sâm trồng đều chỉ sinh trưởng và phát triển dưới các tán rừng nguyên sinh, nơi có thảm mục dày. Do đặc tính sinh thái của củ sâm Ngọc Linh chỉ mọc trên tầng thảm mục mà không mọc dưới đất, nên những vùng có tầng thảm mục dày là nơi có điều kiện lý tưởng cho cây sâm sinh trưởng và phát triển. Dưới các tán rừng nguyên sinh cũng tạo nên các điều kiện về độ ẩm đất phù hợp cho cây sâm sinh trưởng, phát triển.
+ Đặc điểm địa hình
Vùng sâm Việt Nam (sâm Ngọc Linh) sinh sống chủ yếu phân bố ở các xã vùng núi cao thuộc thuộc hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam. Khối núi Ngọc Linh là khối núi cao thứ hai tại Việt Nam, là một phần của Nam Trường Sơn. Khối núi này nằm trên phần cao nguyên phía Bắc Tây Nguyên, Việt Nam, tại địa phận các tỉnh Kon Tum, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Gia Lai. Khối núi này chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam bắt đầu với ngọn núi Ngọk Lum Heo, núi Mường Hoong, Ngọc Linh, Ngọc Krinh, Ngọk Tem, Ngọk Roo với độ cao trung bình khoảng 800 – 2.600 m. Đỉnh núi cao nhất là đỉnh Ngọc Linh (2.598 m), Ngọk Tu Măng (1.994 m), Ngọk Puôk (2.370 m), Ngọk Păng (2.378 m). Khối núi Ngọc Linh có độ phân cách mạnh, độ dốc lớn, có nhiều thung lũng hẹp và sâu.
Căn cứ vào đặc điểm phân bố, cây sâm Ngọc Linh sinh sống từ đới độ cao 1.400 m trở lên, nơi có mật độ che phủ rừng trên 80%, cây sâm sinh trưởng và phát triển tốt.
+ Đặc điểm sông ngòi, thủy văn
Vùng phân bố (sâm Việt Nam) sâm Ngọc Linh với độ cao trên 1.400 m, có hệ thống rừng tự nhiên che phủ lớn, đặc biệt là tầng thảm mục dày chính là nơi lưu trữ và phát xuất nguồn nước cho các con sông, suối lớn trong vùng. Trong vùng trồng sâm chỉ có hệ thống các con suối nhỏ đổ vào và các hệ thống sông lớn như: Lưu vực sông Đăk Psi nằm trong địa bàn huyện Tu Mơ Rông có diện tích lớn nhất tập trung ở phía Đông – Nam huyện; gồm các hệ thống suối như: Suối nước Chim, suối Đăk PSi, suối Đăk Lây, suối Đăk Ter, suối Đăk Xe,… Lưu vực sông Đăk Tờ Kan thuộc địa bàn huyện Tu Mơ Rông chủ yếu ở phía Tây – Nam của huyện. Các suối thuộc lưu vực sông Pô Kô phân bố chủ yếu ở phía Tây – Bắc huyện. Ngoài ra trong vùng còn có các suối đầu nguồn chảy ra phía Bắc của khối núi Ngọc Linh đổ vào các sông như Vu Gia, sông Thu Bồn thuộc tỉnh Quảng Nam, sông Trà Khúc thuộc tỉnh Quảng Ngãi,… Nhìn chung, vùng trồng sâm Ngọc Linh tuy không có các hệ thống các suối lớn, nhưng lại có hệ số che phủ và hệ tầng thảm mục dày đã tạo cho vùng có độ ẩm cao, khả năng giữ nước tốt rất phù hợp với yêu cầu sinh thái của cây sâm Ngọc Linh.
+ Đặc điểm khí hậu:
Có khối không khí gió mùa Đông Bắc và khối không khí Tây Nam. Ngoài ra, với các đặc thù về độ cao, mật độ che phủ cao,… đã tạo ra vùng khí hậu Á nhiệt đới rất phù hợp với yêu cầu về sinh thái của sâm Ngọc Linh. Điều kiện khí hậu của vùng này có những đặc điểm khác biệt rất lớn so với các vùng xung quanh, như: lượng mưa lớn, độ ẩm cao, lượng bốc hơi thấp, nhiệt độ thấp,…
Chế độ mưa phụ thuộc vào ảnh hưởng của 2 khối không khí. Lượng mưa từ tháng Năm cho đến tháng Mười là do tác động của gió mùa Tây Nam mang lại và từ tháng Mười Một đến tháng Tư năm sau do tác động trực tiếp của gió mùa Đông Bắc. Sườn phía Đông Bắc (vùng núi cao của huyện Nam Trà My, tĩnh Quảng Nam) lượng mưa tập trung cao, với lượng mưa bình quân đạt từ 2.800 – 3.200 mm; đối với sườn Tây Nam lượng mưa thấp hơn ở sườn Đông với tổng lượng mưa trung bình năm đạt từ 2.600 – 2.800 mm. Vùng trồng sâm Ngọc Linh có tổng lượng mưa trung bình năm đạt từ 2.600 – 3.200 mm.
Lượng mưa trong năm tập trung chủ yếu từ tháng Sáu đến tháng Chín, trong thời gian này lượng mưa chiếm khoảng 65 – 70 % tổng lượng mưa cả năm. Các tháng có lượng mưa thấp nhất là tháng Mười Hai, tháng Một, tháng Hai. Khi nghiên cứu đời sống cây sâm, sau thời kỳ ngủ Đông (sau tháng Mười Hai) cây bắt đầu phát triển và từ tháng Tư đến tháng Sáu cây ra hoa và kết quả, tháng Bảy bắt đầu có quả chín và kéo dài đến tháng Chín. Như vậy, việc phân bố về lượng mưa trong năm là tương đối phù hợp với các thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây sâm Ngọc Linh. Cuối tháng 10, phần thân khí sinh cây Sâm Ngọc Linh tàn lụi dần, lá rụng, để lại một vết sẹo ở đầu củ sâm và cây bắt đầu giai đoạn ngủ đông hết tháng Mười Hai, đây cũng là giai đoạn bắt đầu vào mùa khô, lớp mùn bắt đầu thoát nước, thuận lợi cho việc tích trữ các nguyên sinh chất trong củ sâm, không gây bệnh thối vàng củ sâm do độ ẩm gây nên.
Nhiệt độ:
Nhìn chung, nhiệt độ có chiều giảm dần từ Nam ra Bắc, từ Đông sang Tây, phụ thuộc nhiều vào độ cao, các mùa trong năm,… Mặc dù vùng trồng sâm Ngọc Linh nằm trong vành đai nhiệt đới Bắc bán cầu nhưng do phân bố ở độ cao trên 1.800 m nên nền nhiệt độ trung bình có giá trị thấp hơn rất nhiều so với các vùng khác ở dưới thấp. Kết quả phân tích, xử lý sự biến thiên theo không gian và độ cao của yếu tố nhiệt độ của các trạm cho thấy nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất đạt dưới 10°C; nhiệt độ trung binh tháng cao nhất khoảng 20°c. Tổng lượng nhiệt cả năm đạt dưới 7.500 °c. Nhiệt độ tại khu vực phía Tây Nam cao hơn khu vực Đông Bắc, phổ biến từ 2 – 4°c. Nhiệt độ không khí đạt thấp nhất vào tháng Mười Hai, tháng Một, đạt cao nhất vào tháng Tư, tháng Năm. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 15 0 – 18,5 °c. Tháng Mười Hai đến tháng Một năm sau có nhiệt độ thấp nhất, trung bình khoảng 8 – 11 °c, có những năm nền nhiệt độ tối thấp dao động từ 5,5 – 8,5 °c. Tháng Tư, tháng Năm có nhiệt độ cao nhất, trung bình khoảng 22 – 23 °c. Các tiêu chuẩn nhiệt độ trung bình, tối cao, tối thấp và diễn biến nhiệt độ các tháng đều thích hợp với yêu cầu của cây sâm. Tại các thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây sâm nhiệt độ trung bình khoảng 18 °c, đây là ngưỡng nhiệt độ thích hợp với cây sâm. Theo nhiều nghiên cứu ngưỡng thích hợp về nhiệt độ cho sâm là ban ngày từ 20 – 23 °c và ban đêm từ 15 – 18 °c. Kết quả quan trắc cho thấy biên độ nhiệt giữa ngày và đêm tại vùng trồng sâm là từ 8 – 9 °c, cũng là một yếu tố rất phù hợp với sinh trưởng của cây sâm. Khi so sánh với các yêu cầu sinh thái, có thể thấy rằng không có tháng nào trong năm có nhiệt độ trung bình lớn hơn 23 °c, chứng tỏ yếu tố nhiệt độ tại các vùng này thích hợp cao đối với cây sâm.
Độ ẩm:
Độ ẩm tương đối biến đổi theo thời gian rõ rệt hơn không gian, vừa có biến đổi tuần hoàn theo ngày, theo năm vừa biến đổi từ năm này sang năm khác. Độ ẩm tại vùng trồng sâm cao hơn các vùng khác, với độ ẩm trung bình hàng năm đạt từ 86 – 87 %, tháng cao nhất (tháng Tám) đạt 94 – 95 %. Nguyên nhân do phân bố trên độ cao, mật độ che phủ cao, nền nhiệt độ thấp, lượng mưa cao, đồng thời thường xuyên bị che phủ của các đám mây mù mang hơi ẩm đã tạo nên độ ẩm cao cho vùng này. Độ ẩm trung bình năm của vùng phát triển sâm khoảng 85,5 – 87,5 %, sự chênh lệch độ ẩm giữa các tháng là khá lớn, dao động từ 5 – 7 %. Độ ẩm tương đối có cực trị như sau: độ ẩm cực đại thường xuất hiện từ tháng Bảy đến tháng Chín với khoảng từ 89 – 94 % và độ ẩm cực tiểu thường xuất hiện từ tháng Mười Một đến tháng Năm năm sau, nhưng đạt thấp nhất là từ tháng Hai đến tháng Tư với khoảng từ 77 – 82 %; trong khi tại các vùng xung quanh có độ ẩm trung bình từ 85 – 89 % vào mùa ẩm cao và từ 76 – 82 % vào mùa ẩm thấp. Thời có độ ẩm cao trùng thời kỳ hoạt động của gió mùa Tây Nam trong mùa mưa và thời kỳ có độ ẩm thấp trùng với thời kỳ hoạt động của gió mùa Đông Bắc trong mùa khô.
Nhìn chung, độ ẩm không khí của vùng dự án khá thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây sâm. Trong mùa mưa, lượng ẩm tăng cao, tạo điều kiện thuận lợi trong thời kỳ cây sâm sinh trưởng, phát triển thân lá và hoa, đến
tháng Mười độ ẩm bắt đầu giảm dần cũng chính là thời kỳ củ sâm phát triển, trùng với thời kỳ cây sâm bắt đầu vào giai đoạn ngủ đông.
Lượng bốc hơi:
Tại vùng sâm Việt Nam (sâm Ngọc Linh) có lượng bốc hơi thấp hơn so với các vùng khác. Vùng trồng sâm có tổng lượng bốc hơi trung bình năm từ 670 – 800 mm, còn ở các vùng khác dưới thấp từ 850 – 1.000 mm. Vi lượng bốc hơi có xu hướng giảm dần theo hướng Đông – Tây và Nam – Bắc. Lượng bốc hơi cực đại là vào tháng Tư đến tháng Sáu khoảng 75 mm và cực tiểu vào tháng Tám đến tháng Mười (< 30 mm).
Vùng sâm lượng bốc hơi thấp hơn so với các vùng khác trong tỉnh. Tổng lượng bốc hơi trung bình năm từ 670 – 770 mm. Lượng bốc hơi có xu hướng giảm dần theo hướng Đông – Tây và Nam – Bắc. Giá trị cực đại của lượng bốc hơi là vào tháng Ba và tháng Tư (trung bình đạt 85 mm) và cực tiểu vào tháng Tám (trung binh 40 mm). Như vậy, so với yêu cầu về lượng ẩm cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển thì lượng bốc hơi thấp của vùng là một yếu tố rất thuận lợi cho sự tăng sinh khối và hình thành chất lượng sâm.
+ Đặc điểm thực vật học:
Khí hậu của khối núi Ngọc Linh mang nhiều nét đặc thù riêng biệt, từ khí hậu nhiệt đới ẩm đến khí hậu á nhiệt đới vùng núi cao, ngoài ra, khối núi Ngọc Linh có địa hình phức tạp, phân cách mạnh, nhiều vùng núi cao hiểm trở và các thung lũng hẹp sâu do vậy quần thể thực vật cũng rất phong phú và bao gồm nhiều chủng loại khác nhau. Các vùng thấp chủ yếu là kiểu rừng kín thường xanh ẩm nhiệt đới. Kiểu rừng này thành phần phức tạp, rừng cây rậm rạp, nhiều tầng, chủ yếu là rừng kín lá rộng. Càng lên cao thì càng đặc trưng cho kiểu rừng á nhiệt đới với loại rừng kín lá rộng và lá kim.
Đối với vùng sâm Ngọc Linh chủ yếu là vùng rừng tự nhiên, với rừng lá rộng thường xanh, tre nứa và lá kim. Đây là một trong những vùng còn nhiều rừng tự nhiên với nhiều chủng loại gỗ và động vật quý hiếm, cần được bảo vệ và khai thác.
Che bóng là yêu cầu bắt buộc đối với cây Sâm Ngọc Linh vì là loại cây ưa bóng và thường sinh trưởng và phát triển dưới các tán rừng kín thường xanh cây lá rộng đôi khi xen cả cây lá kim với độ che phủ đạt trên 80 %. Qua các tài liệu và kết quả điều tra nhận thấy vùng trồng sâm Ngọc Linh hầu hết đều năm trong vành đai rừng phòng hộ (được hiểu là rừng nguyên sinh) của cả hai tỉnh Kon Tum và Quảng Nam cùng với mức độ ảnh hưởng của con người chưa nhiều nên đã tạo ra tầng mùn dưới các thảm mục dày rất phù hợp với sinh trưởng và phát triển của cây sâm Việt Nam (sâm Ngọc Linh).
7. Bảo tồn và nhân giống
Sau khi dược tính và tác dụng đối với sức khỏe của sâm Ngọc Linh được công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, những năm 80 của thế kỷ 20, trên thị trường tự do giá sâm Ngọc Linh tương đương giá sâm Triều Tiên và vào những năm 90, giá sâm Ngọc Linh còn đắt hơn sâm Triều Tiên nhiều lần. Theo dược sĩ Đào Kim Long thì ngay cả dân Hàn Quốc, Nhật Bản, xứ sở của sâm, cũng qua đây tìm cho được sâm Ngọc Linh để chữa bệnh. Việc khai thác, mua bán và sử dụng tràn lan chưa có quy định quản lý, bảo vệ cùng các chính sách, giải pháp đầu tư, quy hoạch phát triển khiến trên 108 vùng sâm mọc tự nhiên giữa Quảng Nam và Kon Tum dần cạn kiệt, kéo theo hàng ngàn hecta rừng nguyên sinh bị tàn phá nặng nề.
Trước nguy cơ tuyệt chủng của giống sâm quý, Chính phủ Việt Nam đã quyết định thành lập vùng cấm quốc gia ở khu vực có sâm mọc tập trung tại 2 tỉnh Kon Tum và Quảng Nam, đồng thời xếp sâm Ngọc Linh vào danh sách các loại cây cấm khai thác, mua bán bất hợp pháp; tỉnh Quảng Nam và huyện Nam Trà My cũng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích bảo tồn, phát triển cây sâm Ngọc Linh./.