Bài cổ ca bất hủ “Scarborough Fair“ (Lễ hội Scarborough) có khá nhiều phiên bản với các lời khác nhau, nhưng tựu chung ý nghĩa của bài hát vẫn là mối tình ly biệt của cặp trai gái dân dã trong thời loạn, trối trăn những việc mà người yêu của mình không thể làm được. Ngụ ý của những lời trối trăn ví von là nếu làm được những việc vô lý thì họ sẽ được ở bên cạnh nhau, có nghĩa là cả hai đều mãi mãi xa nhau.
Các phiên bản “Scarborough Fair” có khác nhau về địa danh như Whitingham Fair, Southampton Fair, Westborough Fair, Scarborough Fair… và những việc nhắn nhủ khác nhau, nhưng các bài này cùng giống nhau ở điệp ngữ “Parsley, Sage, Rosemary and Thyme” (Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây). Trong các bài phiên bản dân ca của “Parsley, Sage, Rosemary and Thyme”, bài Scarborough Fair có thể nói là phổ thông nhất. Hai nhạc sĩ tài ba Paul Simon và Art Garfunkel cũng dựa theo bài hát này mà sáng tác ra một phiên bản mới, gọi là bài ca từ “Scarborough Fair/Canticle” (Lễ hội Scarborough/Bài thánh ca).
“Canticle” là một phần trong tập nhạc Song book có tựa là “The side of a hill” (Sườn đồi) được hai ông trích ra, sửa đổi vài từ ngữ và ghép vào bài Scarborough Fair, với những câu văn ngắn như những lời cầu kinh, và mang một tên mới: “Canticle” (Bài thánh ca, bài kinh nguyện). Cái hay ở chỗ khi được nhập vào bài Scarborough Fair, mỗi câu mỗi chữ của “Canticle” mang một ẩn ý khác.
Riêng bài “Scarborough Fair” có cách hành văn theo lối cổ, tạo ra nhiều tranh luận trên thế giới về ý nghĩa của từng câu và ý nghĩa của nguyên bài hát. Bài “Scarborough Fair/Canticle” của hai ông Paul Simon và Art Garfunkel cũng gây nhiều tranh luận không ít do lời văn quá ngắn, tối nghĩa, nhiều ẩn dụ và chính hai ông cũng chưa hề chính thức cắt nghĩa bài “Canticle”, có lẽ muốn tôn trọng ý kiến của mọi người, ai muốn hiểu sao thì tùy họ.
Dưới đây là phần lược dịch của người viết, với vốn liếng Việt – Anh ngữ hạn hẹp thế nào cũng có sự diễn dịch sai ý nghĩa của từng câu, nhưng ý của hai bài hát thì vẫn là “Hai phương trời cách biệt” trong cổ ca “Scarborough Fair” và “Lời cầu kinh cho hoà bình” trong bài ca từ “Scarborough Fair/Canticle”.
Bài cổ ca “Scarborough Fair” (Lễ hội Scarborough Fair):
1/ Are you going to Scarborough Fair? Bạn ơi, cậu có đi dự lễ hội Scarborough không? (Hết chinh chiến rồi, bạn được về cố hương còn tôi ở lại)
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Remember me to the one who lives there, Gợi nhớ với cô nàng, người ở cố hương về kẻ ở lại (là tôi) (Đây là lời trố trăn của chàng trai trước khi nhắm mắt)
For once she was a true love of mine. Nàng là người yêu của tôi thuở trước. (Là người yêu của tôi thuở trước, bây giờ thì hết rồi)
2/ Tell her to make me a cambric shirt, Nhắn nàng hãy may cho tôi áo cưới Cambric, (Cambric là áo kết đăng ten và thêu thùa cầu kỳ có nguồn gốc từ xứ Cambrai, Pháp quốc, hường được mặc trong các dịp trịnh trọng như lễ hội hay lễ cưới. Ở đây ý nói may cho chàng trai áo để mặc trong lễ cưới của hai người)
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Without any seam or needlework, Áo may không có mối nối và đường kim (Áo Cambric phải may ghép nối và thêu rất cầu kỳ, không thể may áo Cambric mà không có mối nối đuờng thêu, tức là việc không thể làm được)
Then she shall be a true love of mine. (Nếu làm được như vậy) thì nàng sẽ được mãi mãi ở bên tôi. (Có nghĩa là nàng sẽ không bao giờ được gặp chàng nữa)
3/ Tell her to wash it in yonder well, Nhắn nàng giặt áo đó ở giếng xa,
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Where never sprung water or rain ever fell, Nơi không có nước nguồn hay mưa rơi, (Giếng lúc nào cũng có nước từ mạch nước ngầm, và giếng ở giữa trời thì mưa sẽ rơi vào, có nghĩa là không bao giờ có loại giếng như chàng trai mô tả trên đời)
And she shall be a true lover of mine. (Nếu làm được như vậy) thì nàng sẽ được mãi mãi ở bên tôi. (Có nghĩa là nàng sẽ không bao giờ được gặp chàng nữa)
4/ Tell her to dry it on yonder thorn, Nhắn nàng phơi áo ở khóm gai xa, (Không ai đi phơi áo ở bụi gai, nhất là áo Cambric, vì gai sẽ làm rách áo)
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Which never bore blossom since Adam was born, Những khóm gai mãi đơm hoa từ thuở Adam có hình hài (Không hề có loại cây gai mà lại nở hoa trên đời)
Then she shall be a true lover of mine. (Nếu làm được như vậy) thì nàng sẽ được mãi mãi ở bên tôi. (Có nghĩa là nàng sẽ không bao giờ được gặp chàng nữa)
5/ Now he has asked me questions three, Chàng đã muốn em làm ba việc (trước khi gặp chàng),
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
I hope he’ll answer as many for me, Em mong chàng cũng sẽ làm ngần ấy việc,
Before he shall be a true lover of mine. Trước khi chàng được ở bên em mãi mãi.
6/ Tell him to buy me an acre of land, Nhắn chàng mua cho em một mảnh đất hoang (“An acre of land” có nghĩa là một miếng đất để trồng trọt hay canh tác)
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Between the salt water and the sea sand, Ngay tại bờ biển, (Không thể trồng trọt canh tác với cát và muối biển)
Then he shall be a true lover of mine. (Nếu làm được như vậy) thì chàng sẽ được ở bên em mãi mãi.
7/ Tell him to plough it with a ram’s horn, Nhắn chàng bừa miếng đất với sừng cừu, (Sừng cừu đực cong xoắn lại không thể bừa đất đuợc)
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
And sow it all over with one pepper corn, Và gieo hạt toàn bộ miếng đất bằng một hạt tiêu, (Việc không thể làm được)
And he shall be a true lover of mine. (Nếu làm được như vậy) thì chàng sẽ được ở bên em mãi mãi.
8/ Tell him to sheer’t with a sickle of leather, Nhắn chàng gọt mỏng hạt tiêu bằng liềm da (Không hề có liềm hái làm bằng da, và hạt tiêu nhỏ quá không thể gọt mỏng được)
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
And bind it up with a peacock’s feather, Và buộc hạt tiêu lại bằng lông công, (Lông công cứng và thẳng, không thể dùng làm dây buộc, và hạt tiêu thì quá nhỏ)
And he shall be a true lover of mine. (Nếu làm được như vậy) thì chàng sẽ được ở bên em mãi mãi.
9/ Tell him to thrash it on yonder wall, Nhắn chàng đập cây tiêu trên bờ tường xa,
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
And never let one corn of it fall, Và không bao giờ để một hạt tiêu rơi xuống đất, (Hạt tiêu sẽ rớt vương vải xuống đất – Việc không thể làm được)
Then he shall be a true lover of mine. (Nếu làm được như vậy) thì chàng sẽ được ở bên em mãi mãi.
10/ When he has done and finished his work, Khi chàng đã làm xong những việc em muốn,
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Oh, tell him to come and he’ll have his shirt, Nhắn chàng hãy đến lấy chiếc áo cưới Cambric, (Chàng không thể đến được nữa)
And he shall be a true lover of mine. (Nếu làm được như vậy) thì chàng sẽ được ở bên em mãi mãi.
Bài ca từ “Scarborough Fair/Canticle” (Lễ hội Scarborough Fair/ Bài Kinh Nguyện): (Đoạn 1, 3, 5 và 7 là “Scarborough Fair”, đoạn 2, 4, 6 là “Canticle”)
1/ Are you going to Scarborough Fair? Bạn ơi, cậu có đi dự lễ hội Scarborough không? (Hết chinh chiến rồi, bạn được về cố hương, còn tôi ở lại)
Parsley, sage, rosemary, and thyme Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Remember me to the one who lives there, Gợi nhớ với cô nàng, người ở cố hương về kẻ ở lại (là tôi) (Đây là lời trố trăn của chàng trai trước khi nhắm mắt)
For once she was a true love of mine. Nàng là người yêu của tôi thuở trước (Là người yêu của tôi thuở trước, bây giờ thì hết rồi)
2/ On the side of the hill in the deep forest green Bên sườn đồi nhuốm màu xanh đậm của rừng thẳm (Cây cỏ hoà màu với khói đen của súng và đại bác biến thành màu xanh thẳm, khói bốc lên ngùn ngụt làm tối trời, chúng ta thường nghe “đánh nhau tối tăm trời đất” cũng đồng nghĩa như vậy.)
Tracing of sparrow on snow-crested brown. Dấu binh lửa của chinh nhân trên mặt tuyết. (Sparrow còn có nghĩa là một đàn chim, trong câu này có nghĩa là đoàn quân. Nhiều cánh quân xung trận dẫm nát mặt đất phủ tuyết. Ý nói chiến tranh phá tan nền hoà bình giữa các xứ.)
Blankets and bedclothes the child of the mountain. Chăn mền ôm ấp ngọn đồi non. (Ngụ ý nói lính chết trên trận địa nằm sát nhau, lớp này chồng lên lớp kia từ xa nhìn giống như những tấm mền và khăn trải chồng chất trên nhau, giống như đắp chăn cho ngọn đồi).
Sleeps unaware of the clarion call. Hy sinh trong tiếng lệnh tử thần. (Mạng người chấm dứt nhưng trận chiến vẫn tiếp diễn, lớp trước ngã gục lớp sau vẫn tràn tới theo tiếng kèn thúc quân)
3/ Tell her to make me a cambric shirt. Nhắn nàng hãy may cho tôi áo cưới Cambric. (Cambric là áo kết đăng ten và thêu thùa cầu kỳ có gốc từ xứ Cambrai, Pháp quốc, thường được mặc trong các dịp trịnh trọng như lễ cưới, ý nói may cho chàng trai áo để mặc trong lễ cưới của hai người)
Parsley, sage, rosemary, and thyme Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Without any seam or needlework Áo may không có mối nối hay đường kim (Áo Cambric may ghép nối và thêu rất cầu kỳ, cho nên không thể may áo Cambric được)
Then she shall be a true love of mine (Nếu làm được) thì nàng sẽ được mãi mãi ở bên tôi (Có nghĩa là nàng sẽ không bao giờ được gặp chàng nữa)
4/ On the side of a hill a sprinkling of leaves. Bên sườn đồi lá tan tác rơi. (Bên sườn đồi thân người nối tiếp nhau gục ngã)
Washes the grave with silvery tears. Lệ bạch kim cuốn trôi mộ địa. (Nước mắt phản chiếu ánh sáng của giáp sắt và vũ khí cho nên lấp lánh ánh bạc, ý nói khóc bạn ngay giữa trận tiền. Câu này ví von: quá nhiều nước mắt có thể cuốn trôi mộ điạ của đồng đội. “Grave” là mộ phần, nhưng ý câu này phải là “mộ địa” vì chôn nhiều xác quá, mà đây cũng không phải là nghĩa địa cho nên “grave” trong câu này nên hiểu là mộ địa chôn tạm, lấp bằng tay giống như “lấp đất hố tôi, lấp với đôi tay cô nàng” trong “Giàn thiên lý đã xa” của Phạm Duy)
A soldier cleans and polishes a gun. Người lính lau chùi và đánh bóng khẩu súng. (Bắn nhiều quá thì nòng súng bị ám khói dễ bị kẹt đạn, khẩu súng bị hoen dơ do thuốc súng và máu cho nên phải lau chùi đánh bóng khẩu súng để tiếp tục chiến đấu)
Sleeps unaware of the clarion call. Hy sinh trong tiếng lệnh tử thần. (Mạng người chấm dứt nhưng trận chiến vẫn tiếp diễn, lớp trước ngã gục lớp sau vẫn tràn tới theo tiếng kèn thúc quân)
5/ Tell her to find me an acre of land, Nhắn nàng tìm một miếng đất hoang cho gã si tình (“Giàn thiên lý đã xa”, Phạm Duy) (“An acre of land” có nghĩa là một miếng đất để trồng trọt canh tác)
Parsley, sage, rosemary, and thyme. Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
Between the salt water and the sea strand, Nằm ngay bờ đại dương (Làm gì có miếng đất trồng trọt canh tác ngay bãi biển?)
Then she’ll be a true love of mine. (Nếu làm được) thì nàng sẽ được mãi mãi ở bên tôi. (Có nghĩa là nàng sẽ không bao giờ được gặp chàng nữa)
6/ War bellows blazing in scarlet battalions. Âm thanh của trận hỗn chiến giữa những tiểu đoàn đỏ. Ý câu này là: “các tiếng súng, tiếng kèn, tiếng la hét, tiếng rên siết … âm vang từ những đám quân be bét máu”. (Scarlet ở đây ám chỉ màu đỏ của máu, Battalions là những tiểu đoàn, nhưng chữ “tiểu đoàn” gợi lên hình ảnh đoàn quân chỉnh tề, mà ở đây cảnh giao tranh hỗn độn diễn ra không còn hàng ngũ gì nữa, chữ “đám quân” mới diễn tả đúng cảnh tượng lúc đó, vậy thì scarlet battalions nên hiểu là “những đám quân be bét máu”)
Generals order theirs soldiers to kill. Các tướng lãnh hiệu lệnh cho quân sĩ giết giặc. (Các vua chúa giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực, lính chỉ biết nhận lịnh)
And to fight for a cause they’ve long ago forgotten. Và chiến đấu cho một nguyên nhân mà không ai còn nhớ nữa. (Chinh chiến triền miên kéo dài qua nhiều thế hệ. Đám lính trẻ chỉ biết đánh mà không biết nguyên nhân từ đâu)
7/ Tell her to reap it (heather) with a sickle of leather, Hãy nhắn nàng cắt (cỏ thạch thảo) bằng chiếc liềm da, (Liềm bằng da không thể cắt được cỏ thạch thảo vì cỏ có thân cứng và không hề có liềm làm bằng da trên đời)
Parsley, sage, rosemary, and thyme, Mùi tây, xô, hồng hương và húng tây, (Các hương thảo, linh hồn của tình yêu lứa đôi)
And gather it all in a bunch of heather, Bó lại thành một bó thạch thảo (tức là hồng phương bách, họ đỗ quyên, không phải là cúc cánh mối mà người Việt thường gọi là thạch thảo) (Hoa thạch thảo hồng hay tím nở vào mùa xuân, ý nghĩa của mùa xuân là mùa thanh bình nhưng riêng hoa thì lại có ý nghĩa cô đơn và vĩnh biệt. Ý của Paul Simon trong câu này là: hoà bình đến, nhưng người yêu của nàng mãi mãi không trở về nữa)
Then she’ll be a true love of mine. (Nếu làm được) thì nàng sẽ được mãi mãi ở bên tôi. (Có nghĩa là nàng sẽ không bao giờ được gặp chàng nữa)
Ở cổ ca “Scarborough Fair”, các vần thơ nhẹ nhàng và những hình ảnh mộc mạc đơn sơ của cuộc sống dân dã thời trung cổ, cùng với giai điệu du dương đặc biệt của loại nhạc Celtic đã được rất nhiều nguời trên thế giới yêu thích và dùng làm lullaby (bài hát ru trẻ con) và bài hát này một lần nữa lại được bình chọn là một trong những bài lullabies hay nhất thế giới.
Với bài ca từ “Scarborough Fair/Canticle”, cũng là những vần thơ nhẹ nhàng, nhưng lần này có sự kết hợp của những “câu kinh nguyện” ngắn ngủi, hàm chưa nhiều ẩn ý làm rung động lòng người nghe, khiến cho toàn bài ca từ mang đậm nét bi tráng của một thiên anh hùng ca thời đại, mà bối cảnh (của bài ca từ) vẫn là những cuộc chiến tranh đẫm máu triền miên thời Trung Cổ.
Trên đây chỉ là một sự lược dịch cũng như nhiều cách dịch khác (trong sách vở và trên mạng) mà do cách hành văn của tiếng Anh cổ, các câu thơ ví von tối nghĩa đồng thời vốn ngôn ngữ Anh -Việt hạn hẹp của người viết đã tạo ra sự khác biệt về cách dịch, độc giả nên nghiên cứu các bài dịch khác ngõ hầu tìm ra một cách dịch thích hợp và đúng đắn với mình nhất.
Vaughan, mùa Giáng Sinh 2014Lê Anh Dũng