Định nghĩa Doanh nghiệp tư nhân (Proprietorship)
Doanh nghiệp tư nhân hay còn gọi là đơn danh: tiếng Anh gọi theo một số cách là proprietorship, sole proprietorship, hay individual proprietorship.
Căn cứ theo hình thức pháp lí của doanh nghiệp và căn cứ vào tính chất sở hữu tài sản trong doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.” (Theo Luật Doanh nghiệp 2005)
Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Về pháp lí, doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Trong doanh nghiệp tư nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo qui định của pháp luật. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lí, điều hành hoạt động kinh doanh.
Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lí doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh và vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ưu điểm của Doanh nghiệp tư nhân
– Thủ tục thành lập đơn giản, dễ dàng
– Khả năng kiểm soát doanh nghiệp tối đa của một chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp. Chủ sở hữu có quyền quyết định tất cả các vấn đề từ tổ chức, điều hành, tăng giảm vốn, sử dụng lợi nhuận, thay đổi ngành hàng kinh doanh theo ý mình,…
– Giải thể dễ dàng, doanh nghiệp tư nhân có thể bán cơ sở kinh doanh của mình cho bất kì người nào họ muốn vào bất cứ lúc nào theo giá họ chấp nhận.
Do đó, doanh nghiệp tư nhân có khả năng ra quyết định rất nhanh và rất linh hoạt trước sự biến động của môi trường kinh doanh.
Hạn chế của Doanh nghiệp tư nhân
– Khả năng huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và công tác điều hành phụ thuộc vào kinh nghiệm của chủ doanh nghiệp.
– Doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể huy động vốn từ vốn của chủ sở hữu, vốn tín dụng, nhưng không được phép phát hành cổ phiếu và trái phiếu.
Phân biệt Doanh nghiệp tư nhân và Kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT 1992
Cho đến nay ở nước ta, do chỉ doanh nghiệp tư nhân mới được gọi là hoặc thừa nhận là doanh nghiệp nên còn có nhiều đối tượng khác cũng tiến hành hoạt động kinh doanh nhưng không hoặc hoặc chưa được gọi là doanh nghiệp.
Nhưng đối tượng kinh doanh này dù là cá nhân hay nhóm người được qui định ở Nghị định 66/HĐBT ngày 02.03.1992 của Hội đồng bộ trưởng về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định qui định trong Nghị định số 221/HĐBT ngày 23.07.1991.
Giống nhau: Doanh nghiệp tư nhân và kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT đều không có tư cách pháp nhân, có qui mô tương đối nhỏ gọn.
Tuy nhiên, hai hình thức kinh doanh này cũng có nhiều điểm khác nhau cơ bản, cụ thể trong bảng sau:
Như vậy, theo các qui định luật pháp, doanh nghiệp tư nhân có nhiều lợi thế hơn hộ kinh doanh cá thể. Tuy nhiên, ở Việt Nam số lượng hộ kinh doanh chiếm tỉ lệ lớn so với doanh nghiệp tư nhân.
(Tài liệu tham khảo: Giáo trình Quản trị kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân)