1. Với tôi, sông Thương gắn bó từ thuở thiếu thời giữa những trưa hè trốn mẹ đi bơi cùng đám bạn hay ngụp lặn mò trai, bắt hến. Bao đời nay quãng sông ấy vẫn cứ mãi yên bình, là nguồn nguyên liệu, là chất men để nhiều nhà thơ, nhạc sĩ cho ra đời những tác phẩm nghệ thuật bất hủ.
Vẻ bình dị của dòng sông Thương đã khiến nhà thơ Lưu Quang Vũ phải thốt lên: Sao tên sông lại là Thương/ Để cho lòng anh nhớ? (Qua sông Thương). Có lẽ chẳng ai lý giải được câu hỏi ấy của nhà thơ và hôm nay vẫn có những người nặng lòng với dòng sông “bên đục bên trong” này.
Sông Thương khởi nguồn từ dãy núi Na Pa Phước, làng Man, xã Vân Thủy, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, chảy trong một máng trũng có tên Mai Sao rồi xuôi vào địa phận tỉnh Bắc Giang, về đến Hải Dương thì gặp sông Thái Bình. Sông Thương còn có một chi lưu lớn là sông Sỏi chảy từ huyện Yên Thế ra, hợp lưu tại nơi tiếp giáp của ba huyện Yên Thế, Tân Yên và Lạng Giang. Đến gần TP. Bắc Giang, có thêm một dòng sông đào đổ nước vào sông Thương. Nước sông Thương vốn trong xanh, có thêm dòng nước đục từ sông đào, thành ra sông có hai dòng chảy song song, một bên trong, một bên đục. Hiện tượng này có thể quan sát được ở khu vực TP. Bắc Giang. Lưu Quang Vũ viết về quãng sông này như sau: “Người xưa bảo đây đôi lòng lệ nhỏ/ Những suối buồn gửi tới mênh mang/ Đò về Nhã Nam/ Đò qua Phủ Lạng/ Mưa chiều nắng rạng/ Đã bao năm (Qua sông Thương).
Tìm sâu về quá khứ, vào thời Lý, sông Thương gọi là Nhật Đức – “dòng sông mặt trời” cùng với sông Đuống (Thiên Đức), Nguyệt Đức (sông Cầu) và Minh Đức (sông Lục Nam), là bốn dòng sông lớn ở miền Bắc. Sông Thương còn có tên là Xương Giang bởi bên bờ có thành lũy Xương Giang để phòng quân phương Bắc tấn công. Theo dân gian và các nhà nghiên cứu địa phương, trong quá khứ, khi quan hay quân Đại Việt đi sứ phương Bắc hay trấn ải biên thùy Lạng Sơn, gia đình họ thường tiễn đưa đến khúc sông Nhật Đức. Nơi đây diễn ra cảnh chia ly người đi kẻ ở thật là thương cảm nên từ đó người đời gọi là sông Thương. Đến nay bên sông Thương còn làng Thương và bến Chia Ly, là chứng nhân của những cuộc biệt ly ấy.
Sông Thương gắn liền với địa danh Phủ Lạng Thương, thành Xương Giang nơi xảy ra chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang từ ngày 18/9 đến 3/11/1427 giữa quân Lam Sơn và hai đạo quân viện binh lên đến 10 vạn người do Liễu Thăng và Mộc Thanh chỉ huy. Trận đại thắng này của nghĩa quân Lê Lợi đã chấm dứt ách đô hộ Đại Việt kéo dài 20 năm của nhà Minh. Trong bài “Xương Giang phú”, Lý Tử Tấn (1378 – ?) – người cùng thời với Nguyễn Trãi, viết: Non sông vốn thiêng/ Nơi đây vũ công lừng lẫy/ Giúp nên đất nước bình yên/ Lạch thiên nhiên của trời Nam sẵn có/ Mở thái bình cho đất Việt khắp miền/ Ấy Xương Giang một sông hình đẹp/ Mà dấu thơm muôn thuở còn truyền…
2. Dòng sông Thương đã khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật vô tận.
Vua Lê Thánh Tông (1442 – 1497) đã viết về con sông Thương như sau: Đứng bên bờ dốc ngắm sông dài/ Lặn với sao trời ráng đỏ soi/ Sông xa bát ngát buồm trăng xế/ Tiếng giặt đâu đây não ruột ai… (Xương Giang cảm hoài). Nhà bác học Lê Quý Đôn trên con đường đi sứ qua đây có thơ đề: Khói tạnh đồng xanh nương rẫy tốt/ Vườn hoang sương lạnh lũy thành trơ… (Độ Xương Giang).
Sau này, tác giả Đặng Thế Phong khi xuôi thuyền trên sông đã viết nhạc phẩm Con thuyền không bến với tình cảm tha thiết: Đêm nay thu sang cùng heo may/ Đêm nay sương lam mờ chân mây/ Thuyền ai lờ lững trôi xuôi dòng/ Như nhớ thương ai trùng tơ lòng…
Về hoàn cảnh ra đời ca khúc, năm 1940, Đặng Thế Phong tạm xa gia đình, người yêu để lên Bắc Giang ít ngày, một buổi tối trăng sao vằng vặc, Đặng Thế Phong cùng bạn bè thuê thuyền cắm sào trên sông Thương cùng nhau hàn huyên. Đang lúc vui thì có người đến đưa cho Đặng Thế Phong một phong thư. Đó là thư của cô Tuyết (người yêu của ông) từ Nam Định gửi lên. Đọc xong thư, ông rất buồn vì biết tin cô Tuyết bị bệnh cả tuần. Chính đêm hôm đó, Đặng Thế Phong không sao chợp mắt được, đã viết những câu não nuột… Lướt theo chiều gió một con thuyền theo trăng trong/ Trôi trên sông Thương nước chảy đôi dòng/ Biết đâu bờ bến, thuyền ơi thuyền trôi nơi đâu/ Trên con sông Thương nào ai biết nông sâu. Tháng 6/1942, tại Nhà hát lớn Hà Nội, bài hát lần đầu tiên được nữ ca sĩ Vũ Thị Hiển trình bày làm xôn xao dư luận.
Nhạc sĩ Phạm Duy nhận xét: “Người nghệ sĩ không còn đứng trong khu vườn nhỏ nữa, anh dắt ta ra trước cảnh thu về trên một dòng sông. Dường như Đặng Thế Phong đã nói lên được tâm trạng của thanh niên nam nữ trong thời đại. Họ sống dưới thời cai trị của thực dân và họ bơ vơ lạc lõng như những con thuyền không bến. Nhưng con thuyền này phải là con thuyền trôi trên một dòng sông dân tộc, dòng sông Thương nước chảy đôi dòng. Quan trọng nhất là con thuyền trôi trong một mùa thu Việt Nam có gió heo may, có sương lam mờ chân mây, có gió van thông ngàn và có ánh trăng mờ chiếu… Nếu là con thuyền trôi trong mùa hè hay trôi trên sông Seine thì chưa chắc bài hát có thể quyến rũ và ám ảnh chúng ta từ lâu và mãi mãi được”.
Các sáng tác về sông Thương không thể không nhắc đến Chiều sông Thương của An Thuyên và Hữu Thỉnh. Ở đó con sông được khắc họa như một miền dân ca thấm đẫm tình người, tình đất. Tiếng hát cứ ngân vang như dòng sông hiền hòa, êm dịu nâng niu, tha thiết: Đi suốt cả chiều quê, vẫn chưa về tới ngõ/ Dùng dằng câu quan họ, nở tím bờ sông Thương/ Nước vẫn chảy đôi dòng, chiều uốn cong lưỡi hái/ Những gì sông muốn nói, cánh buồm giờ hát lên”. Cảnh sắc quê hương hữu tình, nên thơ, một tình quê chan chứa trong “Chiều sông Thương” đầy giăng mắc, vương vấn.
Và còn nhiều, nhiều nữa những tác phẩm nghệ thuật về sông Thương như: Qua cầu sông Thương (Trần Chung), Tấm áo mẹ vá năm xưa (Nguyễn Văn Tý)…
Chính vì lẽ đó, không phải ngẫu nhiên mà nơi đây hình thành Vườn Nghệ thuật Sông Thương nằm bên dòng sông ấy đoạn chảy qua TP. Bắc Giang với diện tích trên 6 hécta do nhà văn Sương Nguyệt Minh sáng tạo và doanh nhân Mười Duyên thực hiện. Theo nhà văn Sương Nguyệt Minh, Vườn Nghệ thuật Sông Thương là nơi lưu giữ những nét đẹp văn hóa Kinh Bắc, là nơi trưng bày những đồ dùng thường nhật, nơi phục dựng những cảnh quan từ xa xưa, như nong nia, thúng mủng, giần sàng, cối giã gạo, cối xay lúa, bể nước mưa, giàn thiên lý, rặng cúc tần, giếng nước cổ… là nơi tổ chức biểu diễn ca trù, quan họ, những ca khúc, vần thơ về vùng đất Kinh Bắc và sông Thương…