Sức lao động là gì? Lý luận hàng hoá sức lao động theo C.Mác?

Sức lao động là gì

Sức lao động là hàng hóa được con người sử dụng trong hoạt động lao động. Lý luận hàng hóa sức lao động được C.Mác xây dựng đề cập đến nội dung sử dụng, khai thác hàng hóa đặc biệt này. Trong xã hội của chế độ tư bản, sức lao động được bán như một loại hàng hóa, mang đến giá trị thặng dư cho giai cấp tư bản. Từ đó mà sức lao động là yếu tố không thể thiếu làm giàu cho giai cấp thống trị.

1. Sức lao động là gì?

1.1. Khái niệm sức lao động:

Sức lao động là khả năng lao động của con người, được phản ánh trong công việc. Đây là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Sức lao động mang đến thành quả của giải quyết công việc. Từ các tư liệu sản xuất ban đầu, con người tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu, chất lượng cao.

Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong hiện thực. Lao động khiến con người phải làm việc, phải thực hiện các mục đích sản xuất, kinh doanh ban đầu. Qua đó có thể tìm kiếm được lợi nhuận từ bán sản phẩm, dịch vụ.

Hay nói cách khác, khả năng sức lao động của con người trong quá trình sản xuất, kinh doanh mang đến lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Từ đó chuyển hóa các vật chất ban đầu thành sản phẩm có giá trị để thu về thặng dư. Sức lao động là khả năng lao động, còn lao động là sự tiêu dùng sức lao động trong quá trình làm việc. Qua đó giúp con người ngày càng làm chủ xã hội và đáp ứng nhu cầu cuộc sống của mình.

Đây là đối tượng phân tích trong quan điểm của triết học Mác:

Sức lao động theo quan điểm của triết học Mác là toàn bộ năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị thặng dư nào đó. Qua đó mà sự chuyển hóa được tiến hành, giúp con người đảm bảo được nhu cầu vật chất.

Sức lao động là một khái niệm trọng yếu trong kinh tế chính trị Mác-xít. Nó được nghiên cứu để chỉ ra nguồn gốc cũng như bản chất của giá trị thặng dư. Hiện nay, giá trị thặng dư đó được gọi dưới tên của lợi nhuận.

1.2. Hàng hóa sức lao động là gì?

Hàng hóa sức lao động là kết quả của một quá trình lao động trong một khoảng thời gian nhất định. Thông qua đó mà con người làm ra các sản phẩm, cung cấp được các dịch vụ trong nhu cầu của khách hàng. Sức lao động được trao đổi như một thứ hàng hóa. Các công nhân làm việc, bỏ ra sức lao động để nhận được lương theo giờ, theo buổi. Tuy nhiên, các giá trị họ làm ra được có thể lớn gấp nhiều lần giá trị thu về.

Hàng hóa sức lao động được tạo thành khi xảy ra các điều kiện sau:

– Người lao động được tự do sử dụng sức lao động của mình trao đổi lấy một giá trị khác. Ví như làm việc để nhận lại tiền hoặc một loại hàng hóa nào đó.

– Bản thân người lao động không thể tự sản xuất kinh doanh. Họ phải tham gia vào chuỗi sản xuất, sử dụng tư liệu và phương tiện, công cụ của người sử dụng lao động. Vì vậy, họ phải bán sức lao động để phục vụ mục đích tồn tại và sống. Nhận được lương thanh toán cho công việc đã thực hiện.

Khi hai điều kiện trên tồn tại song song, sức lao động sẽ trở thành hàng hóa như một điều kiện tất yếu.

Xem thêm: Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị trường sức lao động Việt Nam

2. Lý luận hàng hoá sức lao động theo C.Mác:

Theo C. Mác, sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực ở trong thân thể, trong nhân cách một con người, thể lực và trí lực mà con người đem ra vận dụng để sản xuất ra những sản phẩm có giá trị sử dụng. Con người làm việc có mục đích, tạo ra các sản phẩm cuối cùng có giá trị. Các sản phẩm này được tham gia vào kinh doanh, phục vụ nhu cầu của khách hàng. Do đó nhà tư bản nhận được lợi ích nhiều hơn số vốn đã bỏ ra ban đầu.

Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của sản xuất. Phải có sức lao động mới tạo ra quá trình sản xuất, kinh doanh. Nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa.

Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa khi nó mang những điều kiện sau:

+ Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ sức lao động của mình. Chỉ đơn giản là có sức khỏe, hoặc trình độ, kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu công việc. Họ có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa. Những người này làm công nhân, nhân viên và phải chịu sự quản lý của người thuê họ làm việc.

+ Thứ hai, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, họ trở thành người “vô sản”. Ngoài bán sức lao động, đi làm thuê, họ không có khả năng tìm được công việc tự sản xuất phục vụ đời sống. Để tồn tại, người đó buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống. Tức là phải đi làm thuê và làm việc theo yêu cầu.

Thuộc tính của hàng hóa sức lao động, cũng giống như mọi hàng hóa khác. Hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.

Yếu tố quyết định giá trị hàng hóa sức lao động:

Giá trị của hàng hóa sức lao động được quyết định bởi lượng thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Con người có thể quen việc, làm nhanh hơn để tạo ra nhiều sản phẩm hơn. Sức lao động là khả năng lao động gắn liền với cơ thể sống của con người. Qua đó mang đến hàng hóa với các thuộc tính riêng được phản ánh qua kết quả lao động.

Vì vậy để duy trì sự hoạt động bình thường của con người phải cần có những tư liệu sản xuất nhất định. Đây là các tư liệu mà người sử dụng lao động sẵn có. Họ chỉ tham gia vào mục đích giám sát, quản lý chứ không trực tiếp tham gia lao động.

Do đó giá trị hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sản xuất cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động.

Giá trị hàng hóa sức lao động gồm có:

Giá trị của hàng hóa sức lao động được quyết định một cách gián tiếp thông qua các giá trị tư liệu sản xuất ra sức lao động. Nhà tư bản tính toán để nhận về các lợi nhuận lớn trong hoạt động kinh doanh. Bao gồm:

+ Giá trị những tư liệu sản xuất về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì hoạt động sống của bản thân mỗi người công nhân. Để họ có thể đảm bảo sử dụng tiền lương trong nhu cầu cuộc sống.

Ngoài ra còn có phí tổn đào tạo người công nhân để có trình độ tay nghề thích hợp; Đây là khác biệt mang đến mức lương cao hơn.

+ Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cho gia đình người lao động.

Đặc điểm của hàng hóa sức lao động:

Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là công cụ của nó để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng sức lao động của người sử dụng sức lao động. Giá trị này phản ánh chất lượng, hiệu quả thực hiện công việc lao động.

Khác với hàng hóa thông thường (sau một thời gian tiêu dùng sẽ mất đi giá trị và giá trị sử dụng theo thời gian) thì hàng hóa sức lao động, khi được tiêu dùng, ngoài việc sản xuất ra một loại hàng hóa nào đó thì đồng thời nó cũng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đặc biệt là đối với người lao động có tay nghề, trình độ cao. Càng làm việc, lương nhận về của họ càng cao khi được người sử dụng lao động đánh giá cao.

Phần giá trị lớn hơn đó trong hiệu quả kinh doanh được gọi là giá trị thặng dư. Đây là điểm cơ bản nhất của hàng hóa sức lao động. Nhà tư bản được nhận các lợi ích lớn trong quá trình quản lý, định hướng sản xuất, kinh doanh của mình.

3. Lý luận về hàng hóa sức lao động của C. Mác với thị trường lao động của Việt Nam hiện nay:

Thị trường lao động:

“Thị trường lao động – đó là một cơ chế hoạt động tương hỗ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong một không gian kinh té xác định, thể hiện những quan hệ kinh tế và pháp lý giữa họ với nhau” (theo nhà khoa học kinh tế Nga Kostin Leonit Alecxeevich).

Hay nói chi tiết hơn, thị trường lao động là tập hợp những quan hệ kinh tế, pháp lý, xuất hiện giữa người sở hữu sức lao động (người lao động) và người sử dụng nó (người thuê lao động) về vấn đề chỗ làm việc cụ thể, nơi và hàng hóa và dịch vụ sẽ được làm ra. Thị trường là nơi diễn ra quá trình mua bán, trao đổi sản phẩm. Trong đó, nhà tư bản phải cố bán ra với giá cao để thu về lợi nhuận lớn.

Quá trình sử dụng sức lao động, lao động sẽ được hình thành trong sản xuất chứ không phải trên thị trường. Con người tham gia vào các giai đoạn sản xuất, làm ra các sản phẩm giá trị từ những tư liệu ban đầu. Điều đó giúp đáp ứng nhu cầu sử dụng, đảm bảo tiêu dùng trên thị trường.

– Đối với người nắm giữ sức lao động sẽ được tạo ra cơ hội để nhận chỗ làm việc, nơi mà anh ta có thể làm việc. Được người lao động tuyển dụng phụ thuộc vào khả năng chuyên môn thực tế. Thể hiện khả năng, và nhận thu nhập để tái sản xuất sức lao động của mình. Từ đó nhận về lương, bản chất là tiền mua hàng hóa sức lao động.

– Đối với người thuê lao động sẽ có cơ hội tăng lợi nhuận kinh tế. Nhận về giá trị thặng dư sau khi bán ra sản phẩm của quá trình lao động với giá cao.