Tân Trụ là một huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Long An, thuộc vùng châu thổ đồng bằng sông Cửu Long nằm giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây, có tọa độ địa lý từ 10o38‘ – 10o64‘ vĩ độ Bắc, 106o16‘ – 106o26‘ kinh độ Đông.
- Phía Đông giáp huyện Cần Đước qua ranh giới sông Vàm Cỏ Đông.
- Phía Tây giáp thành phố Tân An và huyện Thủ Thừa.
- Phía Nam giáp huyện Châu Thành qua ranh giới sông Vàm Cỏ Tây.
- Phía Bắc giáp huyện Bến Lức.
Huyện Tân Trụ có tổng diện tích tự nhiên là 106,72 km2, chiếm 2,37% diện tích tự nhiên của tỉnh, được chia ra 10 xã và 01 thị trấn gồm: thị trấn Tân Trụ, xã Mỹ Bình, xã An Nhựt Tân, xã Quê Mỹ Thạnh, xã Lạc Tấn, xã Bình Lãng, xã Bình Tịnh, xã Bình Trinh Đông, xã Tân Phước Tây, xã Nhựt Ninh, xã Đức Tân. Thị trấn Tân Trụ là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của huyện.
Từ thị trấn Tân Trụ trung tâm của huyện cách thành phố Tân An của tỉnh khoảng 15 km về phía Tây và cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 40 km về phía Bắc.
– Diện tích, dân số:
Huyện Tân Trụ có tổng diện tích tự nhiên 106,72 km2. Dân số (năm 2013) là 61,606 ngàn người, chiếm 4,2% dân số toàn tỉnh; mật độ dân số là 576 người/km2 Dân số Tân Trụ chủ yếu cư trú vùng nông thôn với hơn 55 ngàn dân, chiếm 90% dân số huyện, dân thành thị chỉ 6 ngàn người, chiếm 10% dân số.
Lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế xã hội của huyện đến năm 2013 có khoảng 37 ngàn người chiếm gần 60% dân số toàn huyện. Trong đó cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng 62,1%. Đây là một nguồn lực quan trọng đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội của huyện.
– Khí hậu, thời tiết
Khí hậu của huyện Tân Trụ thuộc vùng nhiệt đới cận xích đạo gió mùa, với hai mùa khô và mùa mưa tương phản. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 10; mùa khô bắt đầu tư tháng 11 đến hết tháng 4 năm sau. Mùa mưa ở Tân trụ thường đến sớm hơn và chấm dứt sớm hơn các huyện phía Bắc của tỉnh Long An.
Tổng lượng mưa trung bình nhiều năm khoảng 1.900 mm, tập trung vào các tháng 6,7,8,9 và 10, chiếm khoảng 90% lượng nước mưa (khoảng 1.500 – 1.600 mm). Lượng mưa phân bố không đều trong năm: mùa mưa chiếm 85 – 90% lượng mưa cả năm.
Từ tháng 9 đến tháng 10 có lượng mưa lớn trùng với mùa lũ nên thường xảy ra ngập úng. Về mùa khô lượng mưa thấp. Mưa ít nhất vào các tháng 2 và 3, vào thời điểm này hầu như không có mưa. Lượng bốc hơi ngược lại, cao ở mùa khô, chiếm tới 67 – 68% tổng lượng bốc hơi cả năm.
Chế độ mưa là yếu tố khí hậu cơ bản tạo ra sự tương phản giữa 2 mùa khô và mùa mưa. Sự tương phản về mùa trong năm chi phối các yếu tố khí hậu khác: chế độ nhiệt, chế độ nắng và chế độ mưa.
Nhiệt độ không khí trung bình xấp xỉ 27oC, nhiệt độ trung bình thấp nhất từ 15 – 17oC, thường xảy ra vào tháng 12, trung bình cao nhất từ 31,5 – 32oC, thường gặp vào tháng 3 – 4 hàng năm.
Ẩm độ không khí cũng chênh lệch cao giữa mùa mưa và khô. Độ ẩm trung bình 79,5%. Nhưng thời điểm thấp nhất chỉ có 20%, cao nhất đạt tới xấp xỉ 100%.
Chế độ nắng khá dồi dào, trung bình 2.700 giờ/năm, từ 7- 8 giờ/ngày. Số giờ nắng trung bình nhiều nhất vào các tháng đầu mùa khô (tháng 1, 2, 3), ít nắng nhất vào các tháng giữa mùa mưa (tháng 7, 8, 9).
Hướng gió cũng thay đổi theo mùa, với hai chế độ: chế độ gió mùa mưa và mùa khô. Vào mùa khô, gió chủ yếu thịnh hành theo hướng Đông Bắc, với tốc độ trung bình 5 – 7 m/s. Tân Trụ ít có bão, tuy nhiên đôi khi ảnh hưởng bão và áp thấp nhiệt đới, có mưa lớn xảy ra.
Nhiệt độ không khí ổn định là một ưu thế của khí hậu, thuận lợi để tăng năng suất sinh học và cây trồng nông nghiệp. Tuy nhiên, chế độ khí hậu tương phản theo mùa đã gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và đời sống con người, đặc biệt là thiếu nguồn nước ngọt trong mùa khô.
– Tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất:
Đất ở Tân trụ thuộc loại đất phù sa. Đất phù sa được chia làm 3 loại. Trong đó, đất phù sa đang phát triển có 4.362 ha, chiếm 41%; đất phù sa đang phát triển điển hình có 2.384 ha, chiếm 22,4%. Đất phèn có 6 loại. Trong đó, đất phèn nhẹ có 1.650 ha, chiếm 15,5%, đất phèn nhẹ nhiễm mặn có 1.200 ha, chiếm 11,3%. Đất phèn nhiễm mặn nặng có 237 ha, chiếm 2,2% diện tích.
Tiềm năng lớn nhất của huyện Tân Trụ là đất đai. Trong đó đất nông nghiệp đến năm 2013 có khoảng 7.790 ha, chiếm trên 73% diện tích tự nhiên, đất ở có 1.040 ha, chiếm 9,75% diện tích đất tự nhiên, đất chuyên dùng khoảng 671 ha chiếm 5,78%. Trong thời kỳ năm 2000 – 2013, sử dụng đất đai của huyện theo hướng tận dụng nguồn tài nguyên đất đai sẵn có vào mục đích phát triển kinh tế – xã hội của huyện.
* Tài nguyên nước
Nguồn nước mặt trên địa bàn huyện Tân Trụ khá phong phú Tân Trụ được. bao quanh bởi hệ thống 2 con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Phía sông Vàm Cỏ Đông là 15,5 km và phiá sông Vàm Cỏ Tây là 20 km.
Đồng Tháp Mười có tổng lượng nước trung bình hàng năm khoảng 460 tỷ m3 là nguồn cung cấp nước quan trọng cho sông Vàm Cỏ Tây về mùa khô. Ngoài ra, còn sông Nhật Tảo cùng hệ thống kênh rạch chằng chịt tạo nguồn cung cấp thêm nước mặt cho sản xuất và đời sống của con người.
Nguồn nước mưa
Do chế độ mưa phân phối không đồng đều nên thường gây ra úng cục bộ trong mùa mưa và thiếu nước ngọt trong mùa khô. Nước mưa là nguồn chủ yếu được trữ để sinh hoạt cả năm.
Nguồn nước mặn
Tân Trụ nằm giữa hạ lưu của sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, cho nên ảnh hưởng chế độ bán nhật triều biển Đông khá mạnh. Vào mùa khô, nước mặn từ cửa Soài Rạp theo cửa sông chảy vào hệ thống kênh nội đồng làm cho quá trình nhiễm mặn xảy ra. Tuy nhiên, nguồn nước mặn cũng là một lợi thế để phát triển sinh thái ngập mặn về thuỷ sản.
Nguồn nước ngầm
Theo tài liệu đánh giá của Liên đoàn địa chất thuỷ văn và địa chất công trình năm 1998 cho thấy:
- Các tầng chứa nước nông có chất lượng trung bình và kém, hầu như bị nhiễm phèn, không sử dụng trực tiếp được.
- Các tầng ở độ sâu 280 – 320 m có chất lượng nước trung bình và tốt có thể cung cấp cho sinh hoạt con người.
* Thủy Văn:
Chế độ thuỷ văn của huyện chịu tác động mạnh của chế độ bán nhật triều của Biển Đông.
Vào mùa khô thuỷ triều đưa nước mặn từ cửa Soài Rạp vào nội đồng. Ở hệ thống sông Vàm Cỏ Đông (tại Bến Lức) có số ngày nhiễm mặn khoảng 130 – 160 ngày. Ở hệ thống sông Vàm Cỏ Tây đô mặn, thường xuất hiện trễ hơn ở sông Vàm Cỏ Đông 12- 20 ngày (xuất hiện vào giữa tháng 2). Ngược lại, vào mùa mưa chế độ dòng chảy chịu tác động của lũ từ hệ thống sông Tiền tràn qua khu vực Đồng Tháp Mười gây ra úng nhiều nơi trên địa bàn.
Mực nước giữa sông Vàm Cỏ Tây và sông Vàm Cỏ Đông chênh lệch nhau khoảng 0,15m. Lợi dụng sự chênh lệch này, vào mùa khô có thể lấy nước tự chảy từ sông Vàm Cỏ Tây vào khu vực nội đồng thuận lợi hơn phiá sông Vàm Cỏ Đông. Vào mùa mưa có thể tiêu nước qua sông Vàm Cỏ Đông dễ dàng hơn phiá sông Vàm Cỏ Tây.
- * Địa hình và địa chất
Địa hình
Địa hình của huyện Tân Trụ khá bằng phẳng, hơi nghiêng về phiá Đông, độ cao trung bình là + 0,85 m.
Địa chất
Địa chất của huyện thuộc loại đất phù sa mới được bồi đắp trên nền đất mềm yếu.
* Giao thông thủy lợi
Huyện Tân Trụ có vị trí khá thuận lợi, cách Thành phố Tân An 15 km về phía Tây, cách thành phố Hồ Chí Minh 40 km về phía Bắc. Từ trung tâm huyện có đường ôtô nối với quốc lộ 1A. Sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây bao boc̣ hai bên, thuận tiện cả về giao thông thuỷ bộ.
Nguồn nước tưới được cung cấp thường xuyên bởi hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn nhiều nhánh sông như: sông Nhựt Tảo, sông Tân Trụ và hệ thống kênh rạch chằng chịt.
Hệ thống thủy lợi Nhựt Tảo cơ bản khép kín thông qua việc thi công các cống đầu mối (sông rạch thông ra Sông vàm Cỏ Đông và vàm Cỏ Tây) và đê bao ven sông. Hiện nay ngăn được lũ và triều cường, chống được mặn xâm nhập vào nội đồng, chủ động trong tưới tiêu.
TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
* Đặc điểm Văn hóa
– Phong tục tập quán:
Những lễ nghi, phong tục đời thường như tang chế, cưới xin, tết nhất, đầy tháng, đầy năm… ở Tân Trụ về cơ bản cũng giống như các địa phương khác ở Long An và Nam Bộ.
Ngày nay, chế độ phong kiến, gia trưởng bị xã hội lên án, nên văn hóa ứng xử của người Tân Trụ trong gia đình và ngoài xã hội đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, những yếu tố cơ bản của gia đình như tình thương yêu ruột thịt, tinh thần đùm bọc, cưu mang lẫn nhau, những nét đẹp truyền thống như hiếu khách, tình bạn cao cả, thủy chung, lối sống có nghĩa, có tình cùng với các phong tục tập quán tốt đẹp vẫn được người Tân Trụ bảo tồn, kế thừa và phát triển để xây dựng một xã hội mới ngày một văn minh, tiến bộ hơn.
+ Tín ngưỡng dân gian:
Ở Tân Trụ, người Việt là thành phần chủ yếu trong cộng đồng, vì thế tín ngưỡng dân gian chủ yếu là tín ngưỡng của người Việt.
Những dòng họ đầu tiên đến khai phá đất Tân Trụ còn lưu lại tập quán truyền thống cúng “việc lề” hoặc “giỗ hội”. Mỗi kiến (cánh) họ có nghi thức và thời gian cúng việc lề khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là vào tháng Giêng âm lịch. Lễ cúng việc lề thể hiện lòng biết ơn đối với tổ tiên đã có công lao khai cơ mở đất, có tác động kết chặt tình thân giữa những người trong cùng một cánh họ.
Với quan niệm “sinh vi tướng, tử vi thần”, nhân dân Tân Trụ duy trì tín ngưỡng thờ cúng những bậc anh hùng, công đức. Tiêu biểu cho loại tín ngưỡng này là lệ cúng quan Xá sai ty Mai Công Hương thường diễn ra trọng thể vào ngày 30 tháng 11 và mùng 01 tháng chạp âm lịch hàng năm tại xã Nhựt Ninh.
Sự ra đời của ngôi đình đã đánh dấu một bước phát triển quan trọng của cư dân Tân Trụ trong quá trình khai hoang lập ấp. Hàng năm, các đình làng ở Tân Trụ đều tổ chức cúng tế 3 hoặc 4 lần vào các dịp Kỳ yên, Thượng điền, Hạ điền và Cầu bông. Mục đích của những lễ nghi nông nghiệp này là cầu cho Quốc thới dân an, mùa màng tươi tốt. Ở Tân Trụ hiện còn tồn tại 17 ngôi đình của các ấp xã xưa, đa số được xây dựng vào thế kỷ XIX, trong đó có 3 đình còn giữ được sắc thần do vua Tự Đức ban vào năm 1852.
Bên cạnh những tín ngưỡng dân gian của người Việt, ở một vài nơi trên đất Tân Trụ còn có tín ngưỡng của người Hoa. Điều này thể hiện qua một số cơ sở thờ tự tôn giáo như chùa Ông (thị trấn Tân Trụ), chùa Ông thuộc cụm di tích chùa Ông – đình thần Nhựt Tảo (xã An Nhựt Tân).
+ Các tôn giáo chủ yếu ở Tân Trụ:
– Phật giáo:
Năm 2014, Tân Trụ có 18 cơ sở thờ tự với …..tín đồ được xây dựng hồi đầu thế kỷ XX đến năm 1973. Phật giáo đã theo chân những nhóm di dân từ miền Trung đến Tân Trụ và đóng vai trò là nguồn an ủi tinh thần, giúp cho cư dân nơi đây vượt qua những khó khăn thử thách để đứng vững trên vùng đất mới.
Phật giáo nói chung là thích nghi và hòa hợp với nếp sống của dân tộc. Vì thế, nhân dân Tân Trụ ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của triết lý Phật giáo như: luân hồi, nhân quả, niết bàn… Một số phong tục tập quán ở Tân Trụ như cúng rằm, ăn chay, kiêng kỵ, không sát sinh, đi chùa lễ Phật… đều liên quan chặt chẽ đến Phật giáo.
– Đạo Cao Đài:
Tân Trụ có 03 cơ sở thờ tự Thánh Thất Bình Tịnh (Phái Bến Tre), Thánh Thất Thị Trấn Tân Trụ (Phái Tây Ninh) và Thánh Thất Nhựt Ninh (hoạt động riêng lẻ) với tổng số ……tín đồ
* Di tích lich sử “Vàm Nhựt Tảo” thuộc Xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An
Được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận di tích cấp quốc gia vào ngày 28/6/1996.
Nơi ghi dấu chiến công oanh liệt của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu L’Esperance (Hy Vọng) của thực dân Pháp ngày 10.12.1861.
* Di tích lịch sử ” Khu Vực Miễu Ông Bần Quỳ” thuộc Ấp Nhựt Long, xã Nhựt Ninh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An.
Được UBND tỉnh Long An công nhận di tích cấp tỉnh ngày 18/6/1993.
Di tích có tên chữ Hán là “Xá Hương Từ” (Đền Xá Hương) nhân dân địa phương thường gọi là Miễu Xá Hương hay Miễu Ông Bần Quỳ. Ngôi miếu này được dựng lên để thờ ông Mai Công Hương nguyên là Xá Sai Ty của Dinh Phiên Trấn.
Khi Mai Công Hương tuẫn tiết cùng đoàn thuyền vận lương triều đình nhà Nguyễn năm Ất Dậu 1705 những cây bần mọc ở ven sông đều quỳ xuống như tỏ lòng khâm phục nghĩa cử của ông, vì vậy ngôi miếu này còn được gọi là Miễu Ông Bần Quỳ.
* Di tích lịch sử “Đám lá tối trời” thuộc Ấp Thuận Lợi, Xã Nhựt Ninh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An
Được UBND tỉnh Long An công nhận di tích cấp tỉnh ngày 18/6/1993.
Đám lá tối trời là một khu vực sình lầy, sông rạch chằng chịt mọc đầy dừa nước nằm ven bờ Vàm Cỏ Tây thuộc ấp Thuận Lợi, xã Nhựt Ninh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. Bằng trí thông minh và lòng dũng cảm tuyệt vời của mình nhân dân Tân Trụ đã xây dựng nơi đây thành một căn cứ cách mạng trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trước 1948 nhân dân gọi khu vực này là “đám lá lớn”. Tháng 8/1948 thực dân Pháp mở cuộc càn quét quy mô đầu tiên vào căn cứ và chúng đã thật sự kinh hoàng trước một địa hình vô cùng phức tạp không biết lối ra. Sau khi thất bại ra về chúng đặt tên cho khu vực này là “Đám lá tối trời” đánh dấu sự thất bại đầu tiên của chúng khi đương đầu với khu căn cứ.
* Di tích lịch sử “Khu vực chợ Mỹ Bình” thuộc ấp Bình Đông, xã Mỹ Bình, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An
Được UBND tỉnh Long An công nhận di tích cấp tỉnh ngày 18/6/1993.
Chợ Mỹ Bình được ông Tham Tại lập ra vào khoảng cuối thế kỷ 19, đầu tiên có tên là chợ Tham Tại. Sau đó con ông Tham Tại dùng tiền mua chức huyện Hàm, tục gọi là huyện Lâm nên tên chợ cũng đổi thành “Chợ Huyện Lâm”. Vì tục kiêng tên không ai được phép gọi đích danh Huyện Lâm nên từ đấy về sau người ta gọi là “Chợ Ông Huyện”. Sau 1954 chợ được đổi tên là “Chợ Mỹ Bình”.
Ngày 29/6/1946 lực lượng Vệ quốc đoàn gồm 2 trung đội 1 trung đội thuộc chi đội 15 và 1 chi đội thuộc trung đội 12, lực lượng Vệ quốc đoàn từ Cần Đước kéo sang bộ chỉ chuy đóng tại nhà Hội đồng Mạnh đã phối hợp với lực lượng dân quân của quận Thủ Thừa và lực lượng dân quân của quận Châu Thành đóng tại đình Phong Thạnh thuộc ấp 3, xã Quê Mỹ Thạnh. Tổng cộng toàn bộ lực lượng của ta khoảng 1 đại đội. Đây là trận đánh ta đã bài binh bố trận sẳn sàng rồi dùng kế dụ địch đến để tiêu diệt giết được tên Đề. Trận đánh kết thúc ngày hôm đó ta tiêu diệt 135 tên địch, bắn hư hỏng nặng 1 xe Jeep, thu trên 100 súng trong đó có 6 khẩu FM.
* Cụm di tích lịch sử ” Chùa ông – Đình thần Nhựt Tảo” thuộc Xã An Nhựt Tân, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An
Được UBND tỉnh Long An Quyết định số 2681/QĐ-UBND xếp hạng di tích cấp tỉnh vào ngày 23/8/2012.
Cụm di tích Chùa Ông – Đình thần Nhựt Tảo là địa điểm ghi dấu quá trình khai hoang mở đất và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân Nhựt Tảo nói riêng và nhân dân Long An nói chung.
– Chùa Ông là nơi thờ Quan Thánh Đế Quân (tức Quan Công) – biểu tượng cho nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, lòng dũng cảm, trung thành nên người dân địa phương quen gọi một cách dân dã là chùa Ông.
– Đình thần Nhựt Tảo là nơi thờ thần Thành Hoàng bổn cảnh và các bậc Tiền hiền họ Hồ- những người đã có công khai khẩn đất hoang trở thành thôn ấp và tham gia vào công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nửa cuối thế kỷ XIX.
* Di tích lịch sử “Khu vực Cống Bần” thuộc Ấp Bình Thạnh, Xã Bình Tịnh, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An
Được UBND tỉnh Long An ban hành Quyết định số 4075/QĐ-UBND ngày 22/11/2013 xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh.
Di tích Khu vực Cống Bần là địa điểm ghi dấu những sự kiện lịch sử, những chiến công oanh liệt của Đảng bộ, quân và dân Tân Trụ nói chung và Bình Tịnh nói riêng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Di tích đã chứng minh cho lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc của quân và dân xã Bình Tịnh anh hùng. Dù cho bọn giặc dùng nhiều thủ đoạn độc ác, xây dựng nhiều đồn, tua tại Cống Bần để ngăn cản sự hoạt động của ta, đồng thời thực hiện nhiều chiến lược chiến tranh nhằm kiểm soát nhân dân và chiếm đóng lâu dài đất nước ta nhưng quân và dân xã Bình Tịnh vẫn quyết tâm đánh giặc và bọn tay sai cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn.
Lịch sử huyện Tân Trụ
Tân Trụ là quận của tỉnh Tân An từ ngày 20-11-1952, gồm có 2 tổng: An Ninh Hạ với 6 làng, Cửu Cư Hạ với 6 làng. Từ năm 1965, căn cứ Sắc lệnh 143/SL, ngày 22/2/1956 của Tổng thống VNCH, về việc sửa đổi ranh giới các tỉnh Nam phần, thành lập tỉnh Long An,theo đó quận Tân Trụ thuộc tỉnh Long An, các làng gọi là xã. Sau năm 1965, các tổng mặc nhiên giải thể.
Sau 30-04-1975, Tân Trụ là huyện của tỉnh Long An.
Ngày 11-03-1977, huyện Tân Trụ hợp nhất với Châu Thành thành huyện Tân Châu.
Ngày 19-09-1980, Hội đồng Chính phủ Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 298-CP, đổi tên huyện Tân Châu thành huyện Vàm Cỏ.
Ngày 04-04-1989, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 36/HĐBT, chia huyện Vàm Cỏ thuộc tỉnh Long An thành hai huyện lấy tên là huyện Châu Thành và huyện Tân Trụ. Huyện Tân Trụ có 10 xã: Nhựt Ninh, Tân Phước Tây, Bình Trinh Đông, An Nhựt Tân, Mỹ Bình, Quê Mỹ Thạnh, Lạc Tấn, Bình Tịnh, Đức Tân và Bình Lãng; với 10.269,56 ha diện tích tự nhiên và 60.149 nhân khẩu.
Ngày 23-11-1991, huyện thành lập thị trấn Tân Trụ trên cơ sở chia tách một phần diện tích và dân số từ 2 xã: Đức Tân, Bình Tịnh. Sau khi điều chỉnh, huyện Tân Trụ có thị trấn Tân Trrụ và 10 xã: Mỹ Bình, An Nhựt Tân, Quê Mỹ Thạnh, Lạc Tấn, Bình Lãng, Bình Tịnh, Bình Trinh Đông, Tân Phước Tây, Đức Tân, Nhựt Ninh.