Ở mọi quốc gia trên thế giới, các quan chức thực thi pháp luật đang ở tuyến đầu của các nỗ lực chống tội phạm có tổ chức. Việc xây dựng năng lực điều tra tội phạm và thực thi pháp luật khác là một thành phần cốt lõi. Hỗ trợ kỹ thuật bao gồm nâng cao năng lực thể chế và hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư pháp để tăng cường điều tra và truy tố tội phạm có tổ chức. Đào tạo được cung cấp cho các điều tra viên cảnh sát, công tố viên và thẩm phán, nhà phân tích tình báo tội phạm, điều tra viên chuyên ngành ma túy và tội phạm có tổ chức và các quan chức hải quan. Vậy khái niệm vê thực thi pháp luật ở đây được nhận định như thế nào? Cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam được quy định ra sao? Hãy tìm hiểu về nội dung này trong bài viết dưới đây:
Luật sư tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.6568
Cơ sở pháp lý: Hiến pháp Việt Nam năm 2013.
1. Thực thi pháp luật là gì?
Thực thi pháp luật là hoạt động của một số thành viên chính phủ hành động có tổ chức để thực thi pháp luật bằng cách phát hiện, răn đe, phục hồi hoặc trừng phạt những người vi phạm các quy tắc và chuẩn mực quản lý xã hội đó. Thuật ngữ này bao gồm cảnh sát, tòa án và cơ quan điều chỉnh. Ba thành phần này có thể hoạt động độc lập với nhau hoặc tập thể, thông qua việc sử dụng chia sẻ hồ sơ và hợp tác lẫn nhau.
Các bộ luật pháp lý của tiểu bang hiện đại sử dụng thuật ngữ nhân viên hòa bình, hoặc nhân viên thực thi pháp luật, để bao gồm mọi người được nhà nước lập pháp trao cho quyền lực hoặc thẩm quyền của cảnh sát, theo truyền thống, bất kỳ ai “tuyên thệ hoặc có huy hiệu, người có thể bắt giữ bất kỳ người nào vì vi phạm luật hình sự, được bao gồm trong điều khoản chung của việc thực thi pháp luật.
Mặc dù cơ quan thực thi pháp luật có thể quan tâm nhất đến việc ngăn ngừa và trừng phạt tội phạm, nhưng các tổ chức tồn tại để ngăn cản nhiều loại vi phạm không hình sự các quy tắc và chuẩn mực, được thực hiện thông qua việc áp dụng các hậu quả ít nghiêm trọng hơn như quản chế.
Cũng có thể hiểu, những hành vi của chủ thể (hành động hoặc không hành động) được tiến hành phù hợp với quy định với yêu cầu của pháp luật tức là không trái, không vượt quá khuôn khổ mà pháp luật đã quy định là việc thực thi pháp luật của các cơ quan thực thi pháp luật mà trong hiến pháp có quy đinh.
Có thể là những xử sự có tính chủ động, được tiến hành bằng một thao tác nhất định nhưng đó cũng có thể là một xử sự có tính thụ động tức là không tiến hành vượt xử sự bị pháp luật cấm đó cũng được xác định là thực thi pháp luật.
– Từ việc hiểu thực thi pháp luật có nội dung là gì? từ đó tác giả có thể rút ra được các đặc điểm cơ bản của thực hiện pháp luật, cụ thể: Thực thi pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể với nhiều cách thức khác nhau. Bên cạnh đó, thực thi pháp luật còn được biết đến là hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
– Thực thu pháp luật bao gồm các giai đoạn chính được xác định cụ thể như sau:
+ Giai đoạn đầu tiên: Giữa các cá nhân, tổ chức hình thành một quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh (đây được gọi là quan hệ pháp luật) dựa trên các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
+ Giai đoạn tiếp theo: Cá nhân và tổ chức tham gia quan hệ pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Xem thêm: So sánh đào tạo nghề luật và hành nghề luật ở Pháp và Đức
2. Cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam?
Hầu hết việc thực thi pháp luật được thực hiện bởi một số loại cơ quan hành pháp, với cơ quan điển hình nhất thực hiện vai trò này là lực lượng cảnh sát. Đầu tư của xã hội vào việc thực thi thông qua các tổ chức như vậy có thể rất lớn, cả về nguồn lực đầu tư vào hoạt động và về số lượng người tham gia chuyên nghiệp để thực hiện các chức năng đó.
Các cơ quan hành pháp có xu hướng bị hạn chế hoạt động trong một phạm vi quyền hạn cụ thể. Trong một số trường hợp, quyền tài phán có thể chồng chéo giữa các tổ chức. Các thành phần khác nhau của xã hội có thể có các tổ chức thực thi pháp luật chuyên biệt của riêng họ. Một số bộ phận của xã hội, chẳng hạn như các công ty tư nhân chịu trách nhiệm về cơ sở hạ tầng quan trọng và quan trọng, có thể có các cơ quan thực thi pháp luật của riêng họ.
Tùy thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như việc một cơ quan tự chủ hay phụ thuộc vào các tổ chức khác trong hoạt động của mình, cơ quan quản lý cấp kinh phí và giám sát cơ quan có thể quyết định giải thể hoặc hợp nhất hoạt động. Việc giải thể một cơ quan có thể xảy ra khi cơ quan chủ quản hoặc chính bộ phận đó quyết định chấm dứt hoạt động. Điều này có thể xảy ra do nhiều lý do, bao gồm cải cách cảnh sát, thiếu dân số trong khu vực tài phán, hoặc do hàng loạt người từ chức.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thực thi pháp luật Việt Nam bao gồm:
– Chính phủ là “Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp luật, nghị quyết của UBTVQH, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước” (khoản 1 Điều 96),
– Thủ tướng Chính phủ có nhiệm vụ: “Lãnh đạo tổ chức thi hành pháp luật” (khoản 1 Điều 98);
– Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ có nhiệm vụ: “Tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnhvực trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99);
– Chính quyền địa phương có nhiệm vụ: “Tổ chức đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương” (khoản 1 Điều 112); và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp có nhiệm vụ: “Tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương” (khoản 2 Điều 114).
Cơ quan thi hành pháp luật theo Hiến pháp năm 2013 có các đặc trưng cơ bản sau đây:
– Chủ thể tổ chức thi hành pháp luật là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và UBND các cấp.
– Mục đích của tổ chức thi hành pháp luật là làm cho các quy định của pháp luật thực hiện trong cuộc sống trở thành những hành động thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
– Đối tượng của tổ chức thi hành pháp luật là đối tượng của quản lý nhà nước và được tiến hành trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
– Nội dung của tổ chức thi hành pháp luật bao gồm một chuỗi các hoạt động kế tiếp nhau, quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, hoạt động trước là tiền đề, là điều kiện quyết định cho hoạt động sau.
Xem thêm: Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt nam hiện nay
3. Phân biệt các hình thức thực hiện pháp luật:
Thứ nhất: Về bản chất
– Các hình thức thực hiện pháp luật về bản chất đều là sự tuân thủ pháp luật: Là việc thực hiện pháp luật mang tính chất thụ động và thể hiện dưới dạng hành vi không hành động.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về bản chất đều là sự thi hành pháp luật: là hành vi hành động được thực hiện một cách chủ động và tích cực.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về bản chất đều là sự sử dụng pháp luật: là được thể hiện dưới hình thức hành vi hành động và hành vi không hành động.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về bản chất đều là sự áp dụng pháp luật: Là các chủ thể lựa chọn xử sự những điều pháp luật cho phép. Đó có thể là hành vi hành động hoặc hành vi không hành động tùy quy định pháp luật cho phép.
Thứ hai: Đối với chủ thể thực hiện
– Các hình thức thực hiện pháp luật về chủ thể thực hiện đều là sự tuân thủ pháp luật: Mọi chủ thể.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về chủ thể thực hiện khi hành pháp luật đều là: Mọi chủ thể.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về chủ thể thực hiện khi sử dụng pháp luật: Cán bộ, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về chủ thể thực hiện áp dụng pháp luật: Mọi chủ thể.
Thứ ba: Đối với hình thức thể hiện
– Các hình thức thực hiện pháp luật về hình thức thực hiện sẽ phải tuân thủ pháp luật: Thường được thể hiện dưới hình thức cấm đoán.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về hình thức thực hiện sẽ phải dựa trên việc thi hành pháp luật: Thường được thể hiện dưới hình thức quy phạm bắt buộc.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về hình thức thực hiện sẽ phải dựa trên việc sử dụng pháp luật: Thể hiện ở tất cả các loại quy phạm khác nhau do nhà nước có nghĩa vụ cũng như quyền hạn tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật.
– Các hình thức thực hiện pháp luật về hình thức thực hiện sẽ phải dựa trên việc áp dụng pháp luật: Thường được thể hiện dưới hình thức quy phạm trao quyền.
Thứ tư: Tính bắt buộc
– Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật:
Mang tính bắt buộc thực hiện, theo đó chủ thể phải thực hiện theo những quy định của pháp luật mà không có sự lựa chọn khác.
– Áp dụng pháp luật: Chủ thể thực hiện theo ý chí của mình mà không có sự ép buộc thực hiện.