Hiện nay, một số cấp ủy và ngay cả những người làm công tác tuyên giáo còn nhận thức rất khác nhau về công tác tuyên giáo, thậm chí còn có sự nhầm lẫn giữa công tác tuyên giáo với công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo với cơ quan tuyên giáo. Sự thiếu thống nhất này gây nhiều trở ngại trong quá trình nhận thức, triển khai thực hiện công tác tuyên giáo cũng như trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học về công tác tuyên giáo. Muốn hiểu đúng về công tác tuyên giáo không thể duy danh định nghĩa mà cần phải tiếp cận từ góc độ lịch sử và phương thức lãnh đạo của một đảng cầm quyền.
Khi chưa giành được chính quyền, nhiệm vụ trọng tâm, chủ yếu của Đảng là tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, cương lĩnh, đường lối của Đảng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng để tạo sự thống nhất về tư tưởng trong nội bộ Đảng; đồng thời, giác ngộ, tập hợp nhân dân dưới ngọn cờ của Đảng. Thực ra, để có cương lĩnh, đường lối đúng đắn, trước hết Đảng phải tổ chức nghiên cứu, nắm chắc lý luận Mác – Lênin và thực tiễn Việt Nam trong từng thời kỳ, từng nhiệm vụ. Những công việc đó thuộc về công tác lý luận, hay nói đúng hơn là công tác nghiên cứu lý luận. Cùng với công tác nghiên cứu lý luận, Đảng phải tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu biết, tin tưởng và sẵn sàng theo Đảng làm cách mạng.
Bên cạnh công tác tuyên truyền, Đảng tiến hành công tác cổ động để cổ vũ, động viên, khích lệ, khơi nguồn động lực để quần chúng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dấn thân để hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Trên thực tế, tuyên truyền và cổ động luôn đi cùng với nhau, nhưng tuyên truyền thiên về cung cấp tri thức, thuyết phục và xây dựng niềm tin cho đối tượng, còn cổ động lại hướng về cổ vũ, động viên, khích lệ, biến ý chí thành hành động. Vì vậy, trong nghiên cứu khoa học người ta phân biệt tuyên truyền và cổ động là hai mặt công tác khác nhau.
Công tác nghiên cứu lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động là ba hoạt động có mục đích và phương thức tác động khác nhau nhưng đều liên quan mật thiết đến quá trình hình thành, bổ sung, phát triển, truyền bá và biến hệ tư tưởng thành hành động cách mạng của quần chúng. V.I.Lênin gọi đó là ba hình thái của công tác tư tưởng (1).
Các nhà khoa học ở Việt Nam cũng thống nhất gọi ba công việc quan trọng đó là công tác tư tưởng và làm rõ sự khác nhau giữa chúng bằng các công trình nghiên cứu công phu và nghiêm túc(2). Cần lưu ý rằng, công tác tư tưởng khác với cơ quan, tổ chức làm công tác tư tưởng. Một công tác có thể được thực hiện bởi nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau và một cơ quan, tổ chức có thể làm nhiều công tác khác nhau.
Về lý luận là như vậy, nhưng trên thực tế các cơ quan làm công tác tư tưởng của Đảng được đặt tên khác nhau phụ thuộc vào quan niệm và nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư tưởng ở từng thời kỳ. Khi Đảng chưa giành được chính quyền, tuy công tác nghiên cứu lý luận là tất yếu trong quá trình lãnh đạo cách mạng nhưng Đảng chưa có tổ chức chuyên biệt mà chủ yếu phụ thuộc vào việc tự nghiên cứu của các đồng chí lãnh tụ. Trong khi đó, nhiệm vụ cơ bản lúc này là tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ Cương lĩnh, đường lối cách mạng của Đảng. Vì vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng thành lập Bộ Tuyên truyền, sau đó đổi thành Ban Tuyên truyền, Ban Tuyên truyền cổ động, Ban Tuyên huấn(3)… Tuy tên gọi khác nhau, nhưng có thể hiểu đây chính là cơ quan tham mưu, giúp việc cho Trung ương Đảng về công tác tư tưởng.
Năm 1959, thuật ngữ công tác tuyên giáo ra đời. Đây là một thuật ngữ xuất phát từ thực tiễn chứ không phải từ kết quả nghiên cứu khoa học. Thời điểm đó, do yêu cầu tổ chức bộ máy lãnh đạo, Trung ương Đảng quyết định hợp nhất Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Văn giáo Trung ương thành Ban Tuyên huấn Văn giáo Trung ương, gọi tắt là Ban Tuyên giáo Trung ương. Từ đây, thuật ngữ tuyên giáo ra đời và cũng từ đó phát sinh thuật ngữ công tác tuyên giáo và cán bộ tuyên giáo. Đáng chú ý, thuật ngữ công tác tuyên giáo thời kỳ này chỉ bao gồm: công tác tư tưởng, văn hóa văn nghệ, khoa học, giáo dục của Đảng chứ không trùng khít hoàn toàn với thuật ngữ công tác tuyên giáo đang sử dụng hiện nay.
Năm 1968, Đảng quyết định tách Ban Tuyên giáo Trung ương thành Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Từ đó, thuật ngữ công tác tuyên giáo ít được sử dụng. Năm 1989, Bộ Chính trị quyết định hợp nhất Ban Văn hóa – Văn nghệ Trung ương với Ban Tuyên huấn Trung ương, lấy tên là Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương. Từ đây, trong cả lý luận và thực tiễn bắt đầu xuất hiện thuật ngữ công tác tư tưởng – văn hóa và có những nội hàm khác nhau. Có nghiên cứu cho rằng, công tác tư tưởng – văn hóa với công tác tư tưởng chỉ là một, nhưng muốn nhấn mạnh văn hóa như là một phương tiện truyền tải nội dung tư tưởng hoặc văn hóa phải gắn với tư tưởng… Tuy nhiên trên thực tế, thuật ngữ này chỉ hai mảng công tác khác nhau trong một cơ quan của Đảng, bao gồm: công tác tư tưởng và công tác văn hóa – văn nghệ. Năm 2007, Bộ Chính trị ra quyết định hợp nhất Ban Khoa giáo Trung ương và Ban Tư tưởng – Văn hoá Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương. Từ đây, thuật ngữ công tác tuyên giáo được sử dụng trở lại cho đến ngày nay. Tuy nhiên, thuật ngữ này đã mang một nội dung mới, khác với thuật ngữ công tác tuyên giáo ở thập niên 1960.
Để hiểu rõ thuật ngữ công tác tuyên giáo hiện nay, cần phải thấy rõ phương thức lãnh đạo của một đảng cầm quyền. Từ khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng ta lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực đời sống xã hội: chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục, y tế, thể thao, an ninh, quốc phòng, đối ngoại… Sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực này gọi là công tác. Ví dụ, công tác chính trị, tư tưởng; công tác kinh tế; công tác văn hóa – văn nghệ; công tác giáo dục, khoa học… Sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực này bao gồm: việc xác lập quan điểm, đường lối về lĩnh vực đó thông qua các nghị quyết, chỉ thị; tuyên truyền, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị cho cán bộ, đảng viên nói chung và cán bộ, đảng viên, quần chúng công tác trong các lĩnh vực đó; hướng dẫn, chỉ đạo các tổ chức đảng cấp dưới và các cấp chính quyền, đoàn thể cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng; kiểm tra, giám sát việc thực hiện và tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Ngoài ra, Đảng còn thành lập các tổ chức đảng và bố trí cán bộ của mình giữ các cương vị trong các cơ quan quản lý nhà nước thuộc các lĩnh vực đó, để bảo đảm cho đường lối của Đảng được thực thi một cách nghiêm minh. Đảng muốn lãnh đạo được các lĩnh vực rộng lớn đó, thì phải có cơ quan tham mưu, giúp việc. Đó là lý do của việc xuất hiện các ban của Đảng có tên gần giống với tên các bộ, ngành trong cơ quan nhà nước. Trong quá trình lãnh đạo của mình, để đảm bảo hiệu lực lãnh đạo và thực hiện tinh gọn tổ chức bộ máy, các ban tham mưu của Đảng liên tục thay đổi, lúc nhập vào, lúc tách ra với những tên gọi rất khác nhau. Đó cũng là lý do thuật ngữ công tác tuyên giáo có “số phận thăng trầm” như vậy. Vì thế, nếu không hiểu được quá trình hình thành thuật ngữ tuyên giáo, sẽ rất khó định hình nội dung của công tác tuyên giáo. Nếu cứ duy danh định nghĩa thì thuật ngữ công tác tuyên giáo có thể được hiểu rất khác nhau(4).
Các đại biểu dự Hội thi Giảng viên Lý luận chính trị giỏi năm 2018
Đây vừa là hoạt động bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng về lĩnh vực chính trị, tư tưởng nhưng cũng chính là một hoạt động lãnh đạo của Đảng. Đảng tiến hành công tác tư tưởng là tiến hành nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm cơ sở khoa học để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Đảng trực tiếp và lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động để bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong nội bộ, tạo sự đồng thuận trong xã hội với đường lối, chủ trương của Đảng, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, đấu tranh với các tư tưởng sai trái thù địch, v.v.. Ban tuyên giáo các cấp là cơ quan tham mưu giúp việc cho cấp ủy đảng ban hành nghị quyết, chỉ thị; hướng dẫn chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra và sơ kết, tổng kết việc thực hiện công tác tư tưởng của cấp ủy.
Mảng công tác thứ hai của công tác tuyên giáo là công tác văn hóa – văn nghệ. Đây là hoạt động bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa – văn nghệ của đất nước, không đơn thuần chỉ là sử dụng văn hóa – văn nghệ để tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng như một số người nghĩ. Dĩ nhiên, trong công tác văn hóa – văn nghệ có bao hàm công tác tư tưởng, nhưng không đơn thuần chỉ có công tác tư tưởng. Quan trọng nhất của công tác tuyên giáo là bảo đảm cho lĩnh vực văn hóa – văn nghệ luôn hoạt động và phát triển theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng.
Khoa giáo là thuật ngữ viết tắt các lĩnh vực khoa học, giáo dục, y tế, thể thao, dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bà mẹ, trẻ em, phòng chống tệ nạn xã hội, an sinh xã hội… Quốc gia nào cũng phải chăm lo phát triển giáo dục, y tế và các vấn đề xã hội theo các mục tiêu và đường hướng riêng của quốc gia đó. Việt Nam thực hiện cơ chế một đảng cầm quyền, sự phát triển của lĩnh vực khoa giáo phải tuân thủ theo đúng Cương lĩnh, đường lối mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định. Công tác khoa giáo chính là hoạt động bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực nói trên. Khác với công tác tư tưởng, Đảng vừa lãnh đạo nhưng cũng vừa là người thực hiện, công tác văn hóa – văn nghệ và công tác khoa giáo là toàn bộ các hoạt động bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa – văn nghệ, khoa giáo. Trong đó, cơ quan tuyên giáo làm công tác tham mưu giúp cho cấp ủy đảng ban hành các nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, phát triển văn hóa – văn nghệ, khoa giáo; hướng dẫn, tuyên truyền quán triệt các nghị quyết đó trong các lĩnh vực liên quan; kiểm tra và sơ tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng; tham gia ý kiến về bổ nhiệm, đề bạt cán bộ của Đảng trong các lĩnh vực đó; giáo dục, bồi dưỡng văn nghệ sĩ, trí thức…
Công tác tuyên giáo và ban tuyên giáo là hai thuật ngữ khác nhau. Công tác tuyên giáo là công tác tư tưởng của Đảng và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực văn hóa – văn nghệ, khoa giáo. Ban tuyên giáo là cơ quan tham mưu và nghiệp vụ giúp cho cấp ủy thực hiện sự lãnh đạo nói trên. Công tác tuyên giáo không đơn thuần chỉ có công tác tư tưởng; đồng thời, công tác tuyên giáo cũng không làm nhiệm vụ quản lý các lĩnh vực văn hóa – văn nghệ và khoa giáo, vì đó là công việc của các cơ quan nhà nước. Ngoài các công việc trên, ban tuyên giáo còn có thể được giao thêm các nhiệm vụ khác theo yêu cầu của cấp ủy ở từng địa phương, từng thời kỳ. Trong cơ quan tuyên giáo có thể có nhiều bộ phận khác nhau, nhưng đều phục vụ cho việc tham mưu, giúp cấp ủy trong các công tác tư tưởng, văn hóa-văn nghệ và khoa giáo. Công tác tuyên giáo là tên gọi chung của nhiều mảng công tác khác nhau, nên khó có thể đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh mang tính khoa học. Từ sự phân tích nêu trên, bước đầu có thể quan niệm: công tác tuyên giáo là toàn bộ các hoạt động tư tưởng của Đảng, bao gồm việc xây dựng, phát triển, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; đồng thời, bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc của Đảng đối với các lĩnh vực văn hóa – văn nghệ và khoa giáo./.
Chú thích:
(1) Lương Khắc Hiếu: Nguyên lý công tác tư tưởng, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2008, t.1.
(2) Có nhiều công trình như: Nguyên lý công tác tư tưởng của Lương Khắc Hiếu; Công tác tư tưởng của Đào Duy Tùng; Công tác tư tưởng của Đào Duy Quát và nhiều luận án, luận văn, bài báo về vấn đề này.
(3) Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương: Lịch sử công tác tư tưởng – văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2005, t.1, 2, 3.
(4) Công tác tuyên giáo có thể được hiểu là công tác tuyên truyền, giáo dục; công tác tuyên huấn, khoa giáo; công tác tư tưởng, khoa giáo…
TS. Lương Ngọc Vĩnh
________________________________
Bài đăng Tạp chí Tuyên giáo số 5/2019