Triết học là một bộ môn được đưa vào giản dạy rất nhiều ở trong hệ đào tạo đại học. Đây cũng là môn học gây nhiều khó khăn cho rất nhiều thế hệ sinh viên. Tuy nhiên, không nhiều người có thể nêu được khái niệm của triết học. Trong bài viết hôm nay chúng tôi sẽ cung cấp tới quý bạn đọc một số nội dung liên quan nhằm trả lời cho câu hỏi: đối tượng nghiên cứu của triết học mác lênin là gì?
Khái niệm triết học là gì?
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức và ngôn ngữ.
Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy ý trong việc lập luận.
Những vấn đề của triết học:
+ Vấn đề về bản chất: Vật chất và ý thức là gì? Mối quan hệ giữa chúng như thế nào?
+ Vấn đề về chân lý: Làm thế nào để xác định được một luận cứ đi từ tiền đề đến kết luận có hiệu lực hay không? Làm thế nào để biết được một phát biểu là đúng sai? Ta có thể trả lời những loại câu hỏi nào?
+ Vấn đề về nhận thức: Quá trình nhận thức diễn ra thế nào? Chúng ta có thể nhận thức chính xác Thế giới khách quan hay không? Thực tại là gì? Chúng ta nhận thức thực tại như thế nào, có nhận thức toàn bộ thực tại hay không? Nhận thức có đời sống riêng của nó không?
+ Vấn đề đạo đức: Thế nào là “tốt”, thế nào là xấu hay thế nào là giá trị, thế nào là phi giá trị? Sự khác biệt giữa tốt và xấu? Hành động như thế nào là đúng? Các giá trị có tính chất tuyệt đối hay tương đối? Thế nào là các quy tắc tự nhiên? Hạnh phúc là gì?
+ Vấn đề về thẩm mỹ: Đẹp là gì, xấu là gì? Nghệ thuật là gì?
Đối tượng nghiên cứu của Triết học
Đối tượng nghiên cứu của triết học trong từng thời kì cụ thể như sau:
Thứ nhất: Ngay từ khi mới ra đời
– Triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng.
– Quan điểm này nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học của mọi khoa học, đặc biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại. Thời kỳ này triết học đã đạt được nhiều thành tự rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu.
Thứ hai: Thời kì trung cổ
– Tại Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì triết học trở thành nô lệ của thần học.
– Nền triết học tự nhiên bị thay bằng nền triết học kinh viện. Triết học lúc này phát triển một cách chậm chạp trong môi trường chật hẹp của đêm trường trung cổ.
Thứ ba: Vào thế kỷ XV – XVI
– Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã tạo một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học.
– Sự phát triển xã hội được thúc đẩy bởi sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi những phát hiện lớn về địa lý và thiên văn cùng những thành tựu khác của cả khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra một thời lỳ mới cho sự phát triển triết học.
– Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặc biệt yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành nhất là các khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập.
Thứ tư: Thế kỷ XVII – XVIII
– Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chónh trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ gnhiax duy vật thế kỳ XVII – XVIII ở Anh, Hà Lan, Pháp với những đại diện tiêu biểu như Henvetiuyt, Didro, Xpinoda,…
– Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trò “khoa học của các khoa học”. Heghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó, tự coi triết học của mình là hệ thống phổ biến của sự nhận thức. Trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học.
Thứ năm: Đầu thế kỉ XIX
– Hoàn cảnh kinh tế – xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác.
– Chấm dứt hoàn toàn về quan niệm “khoa học của các khoa học”, triết học mác xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Khái niệm triết học Mác – Lênin
Triết học Mác – Lênin là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy – thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo thế giới.
– Triết học Mác – Lênin là triết học duy vật biện chứng theo nghĩa rộng. Đó là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng cả về tự nhiên, xã hội và tư duy; là sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
– Triết học Mác – Lênin trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học của lực lượng vật chất – xã hội năng động và cách mạng nhất tiêu biểu cho thời đại ngày nay là giai cấp công nhân để nhận thức và cải tạo xã hội. Đồng thời triết học Mác – Lênin cũng là thế giới quan và phương pháp luận của nhân dân lao động, cách mạng và các lực lượng xã hội tiến bộ trong nhận thức và cải tạo xã hội.
– Trong thời đại ngày nay, triết học Mác – Lênin là một trong những thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng triết học nhân loại, đang là hình thức phát triển cao nhất của các hình thức triết học trong lịch sử. Triết học Mác – Lênin là học thuyết về sự phát triển thế giới, đã và đang phát triển giữa dòng văn minh nhân loại.
Đối tượng nghiên cứu của triết học mác lênin là gì?
Với tư cách là một hình thái phát triển cao của tư tưởng triết học nhân loại, đối tượng nghiên cứu của triết học Mác – Lênin tất yếu vừa có sự đồng nhất, vừa có sự khác biệt so với đối tượng nghiên cứu của các hệ thống triết học khác trong lịch sử. Cùng tìm hiểu đối tượng nghiên cứu của triết học mác lênin là gì?
Triết học Mác – Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của triết học mác lênin là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật biện chứng và nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
– Với triết học Mác – Lênin thì đối tượng của triết học và đối tượng của các khoa học cụ thể đã được phân biệt rõ ràng. Các khoa học cụ thể nghiên cứu những quy luật trong các lĩnh vực riêng biệt về tự nhiên, xã hội hoặc tư duy. Triết học nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong cả ba lĩnh vực này.
– Triết học Mác – Lênin có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khoa học cụ thể. Triết học Mác – Lênin là sự khái quát cao những kết quả của khoa học cụ thể, vạch ra những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; do đó, trở thành cơ sở thế giới quan, phương pháp luận cho các khoa học cụ thể.
+ Các khoa học cụ thể cung cấp những dữ liệu, đặt ra những vấn đề khoa học mới, làm tiền đề, cơ sở cho sự phát triển triết học.
+ Các khoa học cụ thể tuy có đối tượng và chức năng riêng của mình nhưng đều phải dựa vào một thế giới quan và phương pháp luận triết học nhất định.
+ Quan hệ giữa quy luật của triết học và quy luật của khoa học cụ thể là quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Chức năng của triết học Mác Lênin
Chức năng của triết học Mác Lênin có hai nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất: Chức năng thế giới quan của triết học Mác – Lênin
– Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan. Triết học Mác – Lênin đem lại thế giới quan duy vật biện chứng, là hạt nhân thế giới quan cộng sản.
– Vai trò của thế giới quan duy vật biện chứng:
+ Nó có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng cho con người nhận thức đúng đắn thế giới hiện thực. Nó giúp cho con người cơ sở khoa học đi sâu nhận thức bản chất của tự nhiên, xã hội và nhận thức được mục đích ý nghĩa của cuộc sống.
+ Nó giúp con người hình thành quan điểm khoa học định hướng mọi hoạt động. Từ đó giúp con người xác định thái độ và cả cách thức hoạt động của mình.
+ Nó nâng cao vai trò tích cực, sáng tạo của con người. Thế giới quan đúng đắn chính là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực. Trình độ phát triển về thế giới quan là tiêu chí quan trọng của sự trưởng thành cá nhân cũng như một cộng đồng xã hội nhất định.
+ Nó là cơ sở khoa học để đấu tranh với các loại thế giới quan duy tâm, tôn giáo, phản khoa học. Với bản chất khoa học và cách mạng, thế giới quan duy vật biện chứng là hạt nhân của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và các lực lượng tiến bộ, cách mạng, là cơ sở lý luận trong cuộc đấu tranh với các tư tưởng phản cách mạng, phản khoa học.
Thứ hai: Chức năng phương pháp luận của triết học Mác – Lênin
– Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát có vai trò chỉ đạo việc sử dụng các phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm đạt kết quả tối ưu. Phương pháp luận cũng có nghĩa là lý luận về hệ thống phương pháp. Triết học Mác – Lênin thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất cho nhận thức và hoạt động thực tiễn.
– Vai trò phương pháp luận duy vật biện chứng:
+ Phương pháp luận duy vật biện chứng là phương pháp chung của toàn bộ nhận thức khoa học trang bị cho con người hệ thống những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
+ Triết học Mác – Lênin trang bị cho con người hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật làm công cụ nhận thức khoa học; giúp con người phát triển tư duy khoa học, đó là tư duy ở cấp độ phạm trù, quy luật.
Cũng như mọi khoa học, triết học Mác – Lênin cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng khác nhau. Đó là chức năng thế giới và chức năng phương pháp luận, chức năng nhận thức và giáo dục, chức năng dự báo và phê phán,…
Tuy nhiên, chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết học Mác – Lênin như trên đây đã chia sẻ.
Tiền đề lý luận ra đời triết học Mác
Toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội.
– Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là sự phát triển cao với hình thức và nội dung phong phú. Về hình thức, phép biện chứng đó bao quát cả ba lĩnh vực, bắt đầu từ các phạm trù lôgíc thuần tuý đến lĩnh vực tự nhiên, tinh thần và kết thúc bằng biện chứng của toàn bộ quá trình lịch sử. Về nội dung, phép biện chứng đó được chia thành tồn tại, bản chất và khái niệm. Trong đó, Hêghen coi phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và khẳng định tha hoá được diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.
– Phoiơbắc là một trong những nhà duy vật lớn, ông đã chứng minh thế giới là thế giới vật chất; cơ sở tồn tại của giới tự nhiên chính là giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra và tồn tại độc lập với ý thức. Tư duy, ý thức con người là sự phản ánh của dạng vật chất tổ chức cao về thế giới. Khi phát triển lý luận nhận thức duy vật, Phoiơbắc đã dựa vào thực tiễn để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi lịch sử, mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh nên chứa đựng nhiều yếu tố của chủ nghĩa duy tâm.
– C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa bằng cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính siêu hình, các ông đã làm cho nó trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng nhân loại.
Tiền đề khoa học tự nhiên ra đời triết học Mác
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng và với những phát minh đó, khoa học đã cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng vượt lên tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, thoát khỏi tính thần bí của phép biện chứng duy tâm và trở thành khoa học.
– Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượngcủa các nhà khoa học tự nhiên chứng tỏ lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện tử, các quá trình hoá học không tách rời nhau, mà liên hệ với nhau và hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hoá cho nhau mà không mất đi, chỉ có sự chuyển hoá không ngừng của năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Định luật đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
– Thuyết tế bào chứng minh rằng, tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển chung của thực vật và động vật. Bản chất sự phát triển của chúng đều nằm trong sự hình thành và phát triển của tế bào. Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; phá bỏ quan niệm siêu hình về mặt nguồn gốc và hình thức giữa giới thực vật với động vật.
– Thuyết tiến hoá giải thích duy vật về nguồn gốc và sự phát triển của các loài thực vật và động vật. Các loài thực vật và động vật biến đổi, các loài đang tồn tại được sinh ra từ các loài khác bằng con đường chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo.
Phát minh này đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không có sự liên hệ; là bất biến; chúng do Thượng Đế tạo ra và đã đem lại cho sinh học cơ sở thật sự khoa học, xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài. Những phát minh trên đây của khoa học tự nhiên cho thấy sự tiến bộ của khoa học là tiền đề cho sự tiến bộ của triết học.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của triết học mác lênin là gì? Đã được chúng tôi trả lời và phân tích chi tiết trong bài viết phía trên. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã phân tích thêm một số nội dung liên quan đến vấn đề đối tượng nghiên cứu của triết học. Công ty luật chúng tôi mong rằng những nội dung trên sẽ giúp ích được quý bạn đọc.