Giới thiệu đất nước Mozambique

Mozambique ở đâu

Tổng hợp: Trần Hữu Đồng

Viện Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông

1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên

Mozambique nằm ở Đông Nam châu Phi, với diện tích 799.390 km2,chia thành 11 tỉnh và 128 huyện; có đường bờ biển tiếp giáp với Ấn Độ Dương và có đường biên giới chung với Tanzania, Malawi, Zambia, Zimbabwe, Nam Phi và Swaziland. Đường bờ biển của Mozambique chạy dài 2.700 km từ Bắc tới Nam.Vị trí địa lý của Mozambique là một lợi thế so với các nước láng giềng, đó là có thể sử dụng cảng biển để tham gia vào lưu thông quốc tế. Thủ đô của đất nước là Maputo, thuộc tỉnh Maputo. Dân số khoảng 24 triệu người chủ yếu sống ở nông thôn. Ngôn ngữ chính là tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Anh cũng được sử dụng rộng rãi trong công việc kinh doanh ở các thành phố chính. Ngoài ra, còn có các ngôn ngữ khác như là Makhuwa, Ndau, Tsonga, Lomwe và Sena.

Lãnh thổ quốc gia Mozambique gồm vùng đồng bằng rộng lớn ven biển (45% diện tích lãnh thổ) trải dài từ Bắc vào Nam. Vùng núi (đỉnh Namuli cao 2.419 m) và cao nguyên trải rộng ở phía Tây Bắc rồi thoải dần về phía Nam. Mozambique có các sông chính là sông Zambezi (3.540 km), sông Limpopo (1.770 km), sông Save, sông Rovuma, sông Lugenda. Tài nguyên thiên nhiên phong phú bao gồm than đá, titan, khí đốt, tantan,graphit, thủy điện. Khí hậu nhiệt đới, ẩm, thích hợp cho việc phát triển các đồng cỏ ở vùng đồng bằng và các vùng rừng thưa ở các sườn núi. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 25 độ C; mùa khô (mùa đông) kéo dài 5 tháng, từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình 18-20 độ C; mùa mưa (mùa hạ) kéo dài 7 tháng, từ tháng 11 đến tháng 4, nhiệt độ trong khoảng 30-33 độ C. Mozambique là đất nước nông nghiệp, có diện tích đồng bằng rộng lớn (nhiều sông ngòi và hồ nước) với hàng chục triệu hecta canh tác, rất thuận lợi cho việc trồng cây lương thực (lúa, lúa mì, ngô, khoai, sắn, cao lương…); có vùng cao nguyên mênh mông, bằng phẳng (cao từ 500m đến 1000m so với mực nước biển) với hàng chục triệu hecta đất canh tác, thuận tiện cho việc trồng cây công nghiệp (điều, cà phê, bông, cao su, mía, chè…) và có vùng rừng núi rộng lớn (cao hơn 1.000 m so với mực nước biển) với 27,5 triệu hecta rừng nguyên sinh gồm nhiều loại gỗ quý hiếm và gỗ thương phẩm giá trị cao. Với bờ biển dài và hệ thống sông hồ khắp cả nước, Mozambique có điều kiện thuận tiện cho nghề đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản với nhiều loại tôm, cá có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, tôm he, cá thu, cá hồng, cá chim…

2. Lịch sử phát triển đất nước

Mozambique có lịch sử phát triển lâu đời. Vào giữa thế kỷ I và thế kỷ IV sau Công nguyên, người Bantu đã nhập cư từ phía tây và bắc qua thung lũng sông Zambezi và dần dần xâm nhập vào cao nguyên và các khu vực ven biển, hình thành nên những tộc người đầu tiên ở Mozambique. Vào thế kỷ XII, người Arab đặt chân đến Mozambique để khai thác tài nguyên. Vào thế kỷ XV, Mozambique thuộc quyền khai thác của người châu Âu, đặc biệt là người Bồ Đào Nha, người Anh và người Đức. Trong hai thế kỷ XVII và XVIII, ảnh hưởng của Bồ Đào Nha được khẳng định trong vùng hạ thung lũng phía đông Mozambique, nơi đây trở thành trung tâm mua bán nô lệ. Biên giới thuộc địa mới của người Bồ Đào Nha được ấn định qua các hiệp ước với Đức và Anh (1886-1893). Đầu thế kỷ XX, Bồ Đào Nha đã chuyển quyền điều hành quản lý Mozambique cho các công ty tư nhân lớn như Mozambique Company, Zambezi Company và Niassa Company. Đây là các công ty thuộc quyền kiểm soát và cung cấp tài chính của nước Anh, quốc gia thiết lập các tuyến đường ray từ đây đi các nước lánh giềng và cung cấp lao động cho các đồn điền và hầm mỏ ở các thuộc địa Anh gần đó và ở Nam Phi. Do chính sách và kế hoạch phát triển chủ yếu là mang lại lợi ích cho người Bồ Đào Nha nên người ta ít quan tâm đến việc hội nhập và phát triển của các cộng đồng dân Mozambique bản địa. Do đó, những người bản xứ chịu cảnh phân biệt đối xử cũng như sức ép xã hội. Mozambique trở thành một tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha năm 1951.

Năm 1962, mặt trận Giải phóng Mozambique ( FRELMO) được thành lập, đặt căn cứ tại thành phố Dar es- Salaam ở Tanzania. Năm 1964, Mặt trận Giải phóng Mozambique tiến hành các cuộc chiến tranh du kích chống lại ách thống trị Bồ Đào Nha. Năm 1965, tổ chức này giành quyền kiểm soát 20% lãnh thổ, nhưng những bất đồng nội bộ dẫn đến xung đột gia tăng. Xung đột này, cùng với các xung đột khác ở các thuộc địa Bồ Đào Nha như Angola và Guiea-Bissau, đã trở thành cuộc chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha (1961- 1974). Năm 1973, Bồ Đào Nha buộc phải đưa đến 40.000 quân để trấn áp quân nổi dậy. Năm 1975, Mozambique tuyên bố trở thành nước Cộng hòa độc lập.

Sau khi giành được độc lập, Mozambique lâm vào nội chiến kéo dài, từ năm 1976 đến năm 1992, làm khoảng 1 triệu người chết. Tháng 10 năm 1994, cuộc tổng tuyển cử đa đảng đầu tiên ở Mozambique đã bầu trực tiếp tổng thống và 250 đại biểu quốc hội. Ông Joaquim Alberto Chissano, Chủ tịch Đảng Frelimo đắc cử tổng thống. Đảng Frelimo giành được 129 trong tổng số 250 ghế đại biểu quốc hội. Ngày 9 tháng 12 năm 1994, Tổng thống J.A.Chissano tuyên thệ nhậm chức và thành lập chính phủ đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Tháng 12 năm 2004, Mozambique đã phải trải qua một thời kỳ chuyển giao quyền lực gay gắt khi Joaquim Chissano rút lui khỏi chính trường sau 18 năm lãnh đạo đất nước. Cuộc bầu cử tổng thống đã diễn ra vào tháng 12 năm 2004 với thắng lợi thuộc về Armando Emilio Guebuza. Trong cuộc bầu cử vào tháng 11 năm 2009, ông Guebuza đã tái đắc cử tổng thống với 76,3% số phiếu bầu. Đảng đối lập chính ở Mozambique là Renamo (the Resistencia Nacional Mocambina ). Sau 5 lần tổng tuyển cử kể từ khi giành được độc lập vào năm 1975, tổng thống hiện nay của Mozambique là ông Filipe Nyusi- ứng cử viên tổng thống của Đảng Frelimo cầm quyền- đã giành chiến thắng áp đảo, trở thành tổng thống thứ tư của Mozambique kể từ khi quốc gia ở Nam châu Phi này giành độc lập. Các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội ở Mozambique diễn ra năm 2014, hơn một tháng sau khi hai đảng Frelimo và Renamo ký thỏa thuận hòa bình, chấm dứt gần hai năm xung đột ở miền Bắc Mozambique.

3. Tình hình phát triển kinh tế

Trong suốt thời kỳ là thuộc địa của Bồ Đào Nha nền kinh tế Mozambique chủ yếu là nông nghiệp, giao thương chủ yếu với Nam Phi và Zimbabwe và ngoại hối chủ yếu được chuyển về từ các lao động nhập cư ở các nước láng giềng. Trước khi giành được độc lập, Mozambique là nền kinh tế lạc hậu , người dân không có học vấn và thiếu kỹ năng; cơ sở hạ tầng rất lạc hậu và tồi tàn. Những năm đầu giành độc lập, đường lối phát triển của Đảng là xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên Xô. Vào năm 1977, Mozambique lâm vào nội chiến. Cuộc nội chiến đã đưa Mozambique trở lại tình trạng lạc hậu và kiệt quệ hơn. Vào cuối những năm 1980, sau khi Liên Xô và Tây Âu sụp đổ, chính quyền Frelimo đã bắt đầu đường lối phát triển kinh tế chuyển sang theo mô hình phương Tây. Mozambique đã nỗ lực để gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) và thực hiện các chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế (SAPs) của Ngân hàng Thế giới. Trong thời gian đó, Mozambique đã thực hiện kế hoạch ưu tiên tự do hóa chính sách kinh tế. Vào năm 1987, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới đã áp dụng “Chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế cho Mozambique và chương trình này đã đem lại những tín hiệu tích cực về tốc độ tăng trưởng kinh tế vĩ mô, ổn định giá lương thực và lạm phát. Do thực hiện phát triển kinh tế thị trường, Mozambique đã được hưởng các gói viện trợ phát triển và đầu tư nước ngoài, chủ yếu từ các nước phương Tây, để thúc đẩy phát triển kinh tế vào những năm cuối của thập niên 1980s cho đến đầu thập niên 1990s.

Bắt đầu vào những năm 1990, sau khi kết thúc nội chiến, nền kinh tế Mozambique đã không tránh khỏi bị tác động nặng nề. Nền kinh tế một lần nữa lại suy thoái vào những năm 1990s, xuất khẩu giảm và ngân sách thâm hụt liên tục. Sau nội chiến, vào năm 1992, Mozambique là một trong những nước nghèo nhất của thế giới, nợ công vượt quá 200% GDP vào giữa những năm 1990s. Cuộc chiến tranh đã đem lại những tổn thất kinh tế, hủy hoại cơ sở hạ tầng liên quan đến dịch vụ y tế và giáo dục. Do vậy, thời kỳ đó Mozambique buộc phải kêu gọi viện trợ nước ngoài. Nhóm viện trợ chính phủ 19 cơ quan và quốc gia đã cam kết hỗ trợ Mozambique các gói viện trợ tài chính và cải cách thể chế, hỗ trợ thị trường. Đầu tiên, viện trợ hướng vào mục tiêu trực tiếp là chuyển giao hòa bình, dân chủ hóa chính trị và xã hội Mozambique. Các gói viện trợ cho Mozambique trong thời gian qua đã giúp đất nước này ổn định được tình hình kinh tế vĩ mô, phát triển kinh tế và giảm nghèo. Tuy nhiên, nó cũng khiến đất nước này ngày càng phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài.

Nền kinh tế Mozambique hiện nay đã có nhiều thay đổi. Các gói viện trợ là những nguồn đóng góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước, ở mức 50% vào năm 2010. Những phát hiện gần đây về mỏ khí đốt ở phía Bắc Mozambique được mô tả như là “một giải thưởng độc đắc” cho quốc gia này. Nó biến Mozambique thành mục tiêu săn đón của các công ty đa quốc gia trong ngành năng lượng. Năm ngoái, tập đoàn dầu khí Anadarko của Mỹ đã tìm thấy một nguồn khí tự nhiên ước lượng khoảng 850 tỉ mét khối tại lưu vực Rovuma, gấp 3 lần phần dự trữ còn lại trong vũng biển Bắc. Song song với đó, tập đoàn năng lượng Italy (ENI) cũng đã có hai phát hiện lớn gần khu vực này. Hiện những tập đoàn năng mang tầm cỡ quốc tế như Shell, BP và Total đang tranh nhau hợp tác với ENI để khai thác mỏ khí đốt vừa phát hiện. Điều này cũng cho thấy rằng Mozambique là một thị trường khá màu mỡ trong lĩnh vực khí đốt. Khí đốt được phát hiện ở 2 khu vực Rovuma Basin bên ngoài bờ biển của tỉnh Cabo Delgado và ở Mozambique Basin, ngoài khơi đường bờ biển kéo dài của tỉnh Inhambane và Sofala. Gần đây nhất, khí đốt được sản xuất bởi công ty hóa học và thúc đẩy năng lượng Nam châu Phi Sasol duy nhất tại vũng Pande và Temane ở tỉnh Inhambane, tuy nhiên kế hoạch thực hiện sản xuất ở Rovuma Basin được bắt đầu vào năm 2018. Các nhà phân tích địa phương ước tính rằng khí đốt có thể mang lại cho Mozambique doanh thu khổng lồ , con số này có thể từ 200 đến 400 tỷ USD trong vòng 40 năm tới. Dựa vào điều kiện giàu có về tài nguyên về than đá và khí đốt, Mozambique đã có điều kiện thuận lợi trong việc khai thác cát tự nhiên, đá vôi, boxit, đá quý, graphit, vàng và các tài nguyên thiên nhiên khác. Đây được coi là một vận may bất ngờ cho đất nước mà GDP đầu người chỉ đứng ở mức khiêm tốn là 1.100 USD và chi tiêu của chính phủ ở mức 6 tỉ USD/ năm.

Có thể nói, Mozambique là một trường hợp điển hình trong phong trào vượt nghèo đi lên. Từ ở vị trí cuối cũng của bảng xếp hạng của Liên hiệp quốc về chỉ số phát triển con người, Mozambique đã vượt lên đứng trên Afghanistan, Ethiopia và Liberia. Theo một cuộc khảo sát năm 2008-2009, khoảng 54% dân số Mozambique vẫn còn thuộc diện nghèo. Trước tình hình đó, một câu hỏi được đặt ra : “ Liệu than đá và khí đốt có thể thay đổi mọi thứ không ?”. Đối với các nước khác, điều này có thể là một câu hỏi lớn nhưng đối với Mozambique điều này là có thể. Bằng chứng là Mozambique đã tạo điều kiện cho tập đoàn năng lượng hàng đầu thế giới Shell khôi phục hình ảnh của mình sau sự thất bại của doanh nghiệp dầu mỏ này ở Nigeria. Cùng với sự phát triển của thế giới, Mozambique đang lên kế hoạch xây dựng một khu phức hợp ven biển với diện tích khoảng 300.00 m2, bao gồm văn phòng làm việc, khu dân cư, các tòa nhà và khách sạn. Dự kiến công trình này sẽ được ra mắt trong vòng 15 năm tới. Ngoài ra, Mozambique cũng dự định chi khoảng 50 triệu USD để xây dựng hệ thống khách sạn, nhà ở, một trung tâm mua sắm được thiết kế theo phong cách Bố Đào Nha ở tỉnh Tete và một thị trấn với tên gọi “New Johannesburg”, dự kiến sẽ thu hút 3.000 lao động nước ngoài đến sinh sống và làm việc.

Tài liệu tham khảo

1. Ichumile Gqada (2013), A boom for whom? Mozambique’s natural gas and the new development opportunity, Occational Paper No 151.

2. Wikipedia, Mozambique, http://en.wikipedia.org

3. Trí Văn (2012), Mozambique đang khoác một bộ cánh mới, Báo Cần Thơ điện tử, 2/4/2012, http://www.baocantho.com.vn

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Châu Phi và Trung Đông, tháng 12/2014