Nền kinh tế tri thức có lực lượng lao động có kỹ năng cao trong môi trường kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô; các tổ chức và ngành công nghiệp tạo ra việc làm đòi hỏi các kỹ năng chuyên biệt để đáp ứng nhu cầu thị trường toàn cầu. Tri thức được xem như một đầu vào bổ sung cho lao động và vốn. Về nguyên tắc, vốn cá nhân cơ bản của một người là kiến thức cùng với khả năng thực hiện để tạo ra giá trị kinh tế.
1. Kinh tế tri thức là gì?
Nền kinh tế tri thức (hay nền kinh tế dựa trên tri thức) là hệ thống kinh tế trong đó sản xuất hàng hóa và dịch vụ chủ yếu dựa trên các hoạt động sử dụng tri thức nhằm góp phần thúc đẩy sự đổi mới kỹ thuật và khoa học. Yếu tố quan trọng của giá trị là sự phụ thuộc nhiều hơn vào vốn con người và tài sản trí tuệ đối với nguồn cung cấp các ý tưởng, thông tin và thực tiễn đổi mới. Các tổ chức được yêu cầu phải tận dụng “kiến thức” này vào sản xuất của mình để kích thích và làm sâu sắc thêm quá trình phát triển kinh doanh. Ít phụ thuộc hơn vào đầu vào vật chất và tài nguyên thiên nhiên. Nền kinh tế dựa trên tri thức dựa vào vai trò quan trọng của tài sản vô hình trong môi trường của các tổ chức trong việc tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện đại.
Trong nền kinh tế tri thức, các công việc đòi hỏi tay nghề cao đòi hỏi kỹ năng kỹ thuật và kỹ năng quan hệ xuất sắc như giải quyết vấn đề, khả năng linh hoạt giao tiếp với nhiều lĩnh vực chuyên ngành cũng như khả năng thích ứng với những thay đổi trái ngược với việc di chuyển hoặc chế tạo các vật thể vật chất trong sản xuất thông thường- các nền kinh tế dựa trên. Nền kinh tế tri thức trái ngược với nền kinh tế nông nghiệp, trong đó hoạt động kinh tế chủ yếu là canh tác tự cung tự cấp, trong đó yêu cầu chính là lao động chân tay hoặc nền kinh tế công nghiệp hóa có sản xuất hàng loạt, trong đó phần lớn lao động tương đối phổ thông.
Nền kinh tế tri thức nhấn mạnh tầm quan trọng của kỹ năng trong nền kinh tế dịch vụ, giai đoạn thứ ba của quá trình phát triển kinh tế, còn được gọi là nền kinh tế hậu công nghiệp. Nó liên quan đến nền kinh tế thông tin, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin như vốn phi vật chất và nền kinh tế kỹ thuật số, nhấn mạnh mức độ mà công nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại. Đối với các công ty, tài sản trí tuệ như bí mật thương mại, tài liệu có bản quyền và các quy trình được cấp bằng sáng chế trở nên có giá trị hơn trong nền kinh tế tri thức so với các thời đại trước đây.
Kinh tế tri thức tiếng Anh là Knowledge – BasedEconomy.
2. Đặc điểm của nền kinh tế tri thức:
+ Nền kinh tế dựa trên tri thức và vốn con người: Một hệ thống kinh tế không dựa trên tri thức được coi là không thể tưởng tượng được. Nó mô tả quá trình tiêu dùng và các hoạt động sản xuất được thoả mãn từ việc áp dụng chuyên môn của người lao động – vốn tri thức và thường thể hiện mức độ đáng kể của các hoạt động kinh tế cá thể trong các nền kinh tế phát triển hiện đại thông qua việc xây dựng một nền kinh tế toàn cầu tiên tiến và kết nối với nhau, nơi các nguồn tri thức là những người đóng góp quan trọng.
Khái niệm hiện tại cho “kiến thức” có nguồn gốc từ các nghiên cứu lịch sử và triết học của Gilbert Ryle và Israel Scheffler, những người đã tiến hành kiến thức đến các thuật ngữ “kiến thức thủ tục” và “kiến thức khái niệm” và xác định hai loại kỹ năng: “năng lực hoặc cơ sở thường xuyên” và “kỹ năng quan trọng” đó là hiệu suất thông minh; và nó được xây dựng thêm bởi Lundvall và Johnson, người đã định nghĩa “kiến thức” về mặt kinh tế làm nổi bật bốn phạm trù lớn:
+ Lực lượng lao động có trình độ và kỹ năng: Sự hình thành của nền kinh tế tri thức mạnh mẽ đòi hỏi người lao động phải có khả năng liên tục học hỏi và áp dụng các kỹ năng của họ để xây dựng và thực hành kiến thức một cách hiệu quả.
+ Cơ sở hạ tầng thông tin dày đặc và hiện đại: là khả năng tiếp cận dễ dàng với các nguồn lực công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) nhằm vượt qua rào cản về chi phí giao dịch cao và tạo điều kiện hiệu quả trong việc tương tác, phổ biến và xử lý các nguồn thông tin và tri thức.
+ Hệ thống đổi mới hiệu quả: mức độ đổi mới lớn trong các công ty, ngành và quốc gia để theo kịp với công nghệ toàn cầu mới nhất và trí tuệ con người để sử dụng nó cho nền kinh tế trong nước.
+ Chế độ thể chế hỗ trợ khuyến khích tinh thần kinh doanh và sử dụng tri thức: Một hệ thống nền kinh tế cần cung cấp các biện pháp khuyến khích để cho phép huy động và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích tinh thần kinh doanh.
+ Sự tiến bộ của nền kinh tế dựa trên tri thức xảy ra khi các nền kinh tế toàn cầu thúc đẩy những thay đổi trong sản xuất vật chất, cùng với sự ra đời của các cơ chế lý thuyết kinh tế phong phú sau chiến tranh thế giới thứ hai có xu hướng tích hợp khoa học, công nghệ và kinh tế.
Peter Drucker đã thảo luận về nền kinh tế tri thức trong cuốn sách – Người điều hành hiệu quả năm 1966, nơi ông mô tả sự khác biệt giữa người lao động chân tay và người lao động tri thức. Người lao động chân tay là người lao động bằng chính đôi tay của họ và sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ. Ngược lại, nhân viên tri thức làm việc bằng đầu chứ không phải bằng tay và tạo ra ý tưởng, kiến thức cũng như thông tin.
Các định nghĩa xung quanh “tri thức” được coi là mơ hồ trong điều kiện chính thức hóa và mô hình hóa nền kinh tế tri thức, vì nó là một khái niệm tương đối. Ví dụ, không có đủ bằng chứng và cân nhắc về việc liệu “xã hội thông tin” có thể phục vụ hoặc hoạt động như một “xã hội tri thức” thay thế cho nhau hay không. Thông tin nói chung, không tương đương với kiến thức. Việc sử dụng chúng phụ thuộc vào sở thích cá nhân và nhóm “phụ thuộc vào nền kinh tế”. Thông tin và kiến thức cùng là nguồn lực sản xuất có thể tồn tại mà không cần tương tác với các nguồn khác. Các tài nguyên có tính độc lập cao với nhau theo nghĩa là nếu chúng kết nối với các nguồn lực có thể sử dụng được, chúng chuyển thành các yếu tố sản xuất ngay lập tức; và các yếu tố sản xuất hiện diện chỉ để tương tác với các yếu tố khác. Khi đó, tri thức gắn liền với thông tin trí tuệ được cho là một yếu tố sản xuất trong nền kinh tế mới được phân biệt với các yếu tố sản xuất truyền thống.
3. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức:
Ngay từ những ngày đầu của các nghiên cứu kinh tế, mặc dù các nhà kinh tế đã nhận ra mối liên hệ thiết yếu giữa tri thức và tăng trưởng kinh tế, nhưng nó vẫn chỉ được coi là một yếu tố bổ sung trong các yếu tố kinh tế. Ý tưởng đằng sau đã thay đổi trong những năm gần đây khi lý thuyết tăng trưởng mới ca ngợi kiến thức và công nghệ trong việc nâng cao năng suất và tiến bộ kinh tế.
Cho đến nay, xã hội phát triển đã chuyển đổi từ nền kinh tế dựa vào nông nghiệp, tức là thời kỳ tiền công nghiệp, nơi nền kinh tế và của cải chủ yếu dựa vào nông nghiệp, sang nền kinh tế công nghiệp nơi khu vực sản xuất đang bùng nổ. Vào giữa những năm 1900, các nền kinh tế thế giới hướng tới một hệ thống hậu công nghiệp hoặc sản xuất hàng loạt, trong đó nó được thúc đẩy bởi lĩnh vực dịch vụ tạo ra của cải lớn hơn so với công nghiệp sản xuất; đến cuối những năm 1900 – 2000, kinh tế tri thức nổi lên với điểm nổi bật là sức mạnh của tri thức và khu vực vốn nhân lực, được đánh dấu là giai đoạn phát triển mới nhất của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu. Trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, nền kinh tế tri thức đã trở nên gắn liền với các lĩnh vực dựa trên các ngành công nghiệp công nghệ cao và chuyên sâu về nghiên cứu do nhu cầu tăng đều đặn về các đổi mới dựa trên khoa học tinh vi. Nền kinh tế tri thức hoạt động khác với quá khứ vì nó được xác định bởi những biến động (đôi khi được gọi là cuộc cách mạng tri thức) trong các đổi mới công nghệ và nhu cầu cạnh tranh toàn cầu về sự khác biệt với hàng hóa và dịch vụ mới, và các quá trình phát triển từ cộng đồng nghiên cứu (tức là, Yếu tố R&D, trường đại học, phòng thí nghiệm, viện giáo dục). Thomas A. Stewart chỉ ra rằng cũng giống như cuộc cách mạng công nghiệp không chấm dứt nông nghiệp vì mọi người phải ăn, thì cuộc cách mạng tri thức khó có thể kết thúc ngành công nghiệp vì xã hội vẫn còn nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ vật chất.
– Các ví dụ trên toàn thế giới về nền kinh tế tri thức đang diễn ra trong số nhiều người khác bao gồm: Thung lũng Silicon, Hoa Kỳ; kỹ thuật hàng không và ô tô ở Munich, Đức; công nghệ sinh học ở Hyderabad, Ấn Độ; điện tử và phương tiện kỹ thuật số ở Seoul, Hàn Quốc; công nghiệp hóa dầu và năng lượng ở Brazil. Nhiều thành phố và khu vực khác cố gắng tuân theo mô hình phát triển dựa trên tri thức và nâng cao cơ sở tri thức của họ bằng cách đầu tư vào các cơ sở giáo dục đại học và nghiên cứu nhằm thu hút lao động có kỹ năng cao và nâng cao vị thế của mình trong cuộc cạnh tranh toàn cầu. Tuy nhiên, bất chấp các công cụ kỹ thuật số dân chủ hóa việc tiếp cận tri thức, nghiên cứu cho thấy rằng các hoạt động kinh tế tri thức vẫn tập trung như mọi khi trong các lõi kinh tế truyền thống.
Sự phát triển kinh tế hiện tại và trong tương lai sẽ bị chi phối nhiều bởi công nghệ và sự mở rộng mạng lưới, đặc biệt là về tinh thần kinh doanh xã hội dựa trên tri thức và tinh thần kinh doanh nói chung. Nền kinh tế tri thức đang kết hợp với nền kinh tế mạng, trong đó tri thức được bản địa hóa tương đối hiện đang được chia sẻ giữa các mạng khác nhau vì lợi ích của toàn bộ các thành viên mạng, để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô ở quy mô rộng hơn, cởi mở hơn.