Thi Hương
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thi Hương là một khóa thi cử về nho học do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng ở các địa phương. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó mà được vào làm quan chức trong triều chính. Kỳ thi Hương là kỳ thi sơ khởi nhất. Sau khi đỗ thi Hương thì năm sau mới được dự thi kỳ thi cao cấp hơn là thi Hội (cao hơn nữa là thi Đình).
Đỗ đầu kỳ thi Hương gọi là giải nguyên. Thi Hương được tổ chức tại các trường ở nhiều địa phương.
Việt Nam
Thể lệ
Một người muốn dự thi Hương phải qua hai điều kiện (gọi là Khảo hạch):
- Phải có đạo đức tốt và lý lịch trong sạch. Bản khai lý lịch này phải được xã trưởng và quan địa phương xác nhận.
- Phải có trình độ học lực: trình độ học lực lúc đầu được kiểm tra bằng một kỳ thi liền với kỳ thi Hương nhưng không tính vào nội dung thi Hương 4 kỳ trên. Đây là kỳ thi ám tả cổ văn; ai đỗ kỳ này mới được vào thi Hương. Vì đây là kỳ thi sát hạch, không phải là kỳ thi chính, nên đỗ kỳ này chẳng có học vị gì, cả tỉnh cùng dự thi, ai đỗ kỳ này cũng đã vinh dự lắm, nhất là đỗ đầu. Người đỗ đầu cả xứ được tặng danh hiệu “đầu xứ” (về sau đỗ đầu tỉnh cũng được gọi là đầu xứ) gọi tắt là “ông xứ” như: xứ Nhu (Nguyễn Khắc Nhu), xứ Tố (Ngô Tất Tố). Ông xứ Tố chỉ đỗ đầu xứ thôi, chẳng có học vị gì, nhưng thật là một nhà Nho uyên thâm.[2]
Theo quy định từ năm 1434, thi Hương tương tự như thi Hội cũng có 4 kỳ hay còn gọi là 4 trường.
- Kỳ I thi kinh nghĩa, thư nghĩa: giải thích ý nghĩa trong câu lấy từ Tứ thư, Ngũ kinh. Bài thi phải viết theo lối biền văn – tức là có đối mà không cần vần, phần thi này nhằm kiểm tra khả năng hiểu biết kinh truyện của sĩ tử;
- Kỳ II thi chiếu, chế, biểu: chiếu – lời vua nói, chế – vua phong thưởng cho công thần, biểu – bài văn thần dân tạ ơn vua hoặc chúc mừng vua nhân dịp ngày lễ. Sĩ tử phải biết lựa từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà dùng giọng văn cho thích hợp. Đây là bài thi kiểm tra khả năng soạn văn bản làm quan sau này;
- Kỳ III thi thơ phú: các bài thi được làm theo thể thất ngôn, phần thi này kiểm tra khả năng làm thơ của sĩ tử bởi đây là một trong những sinh hoạt quan trọng của tầng lớp trí thức;
- Kỳ IV thi văn sách: là bài văn trả lời câu hỏi về một vấn đề của đề bài. Phần thi nằm kiểm tra khả năng biện bác, bàn luận vấn đề lịch sử và hiện tại của sĩ tử.
Tùy từng triều đại mà nội dung thi có thể quy định và sắp xếp thứ tự khác nhau. Dưới triều Hồ, thí sinh phải thi thêm kỳ 5 gồm môn ám tả (chính tả) và môn toán. Năm 1855, nhà Nguyễn quy định thi Hương có 3 kỳ và một kỳ phúc hạch bằng thơ phú. Những ai đỗ ở trường nhất mới được thi trường hai, rồi trường ba, trường bốn.
Trường thi
Hội đồng thi và chấm thi của kỳ thi Hương bao gồm các khoa sau:
- Đề Điệu: Chánh chủ khảo;
- Giám Thí: Phó chủ khảo;
- Đồng khảo thí: Chấm sơ khảo;
- Khảo thí: Chấm phúc khảo;
- Đằng Lục: Làm nhiệm vụ rọc phách, niêm phong;
- Di Phong: Thu nhận quyển thi của thí sinh;
- Đối độc: Đọc lại bài của Đằng Lục chép và đối chiếu với bài của thí sinh cho chính xác.
Trường thi Hương là một khu đất rộng được chia làm 4 khu vực (hay còn gọi là 4 vi): Giáp, Ất, Bính, Đinh cắt theo hình chữ thập 十. Ở giữa là nhà Thập đạo có chòi canh để quan trường giám sát thí sinh ngồi thi. Ở hai bên trái, phải có hai chòi để quan giám sát cả thí sinh lẫn quan trường. Mỗi cửa đốt hai cây đuốc lớn (gọi là đình liệu) chiếu sáng rực cả trường thi. Xung quanh trường thi được rào hai lần: một phên kín, một phên thưa đắp tường hào, cài chông, có cả đội lính gác canh giữ.
Trình tự thi
Khoảng 20 ngày trước khi thi, thí sinh phải nộp 3 tập giấy bản mới: trang đầu ghi lý lịch, địa chỉ, nghề nghiệp của bản thân và thế hệ trước cho Hội đồng thi (còn gọi là nộp tuyển). Hai ngày trước khi thi thí sinh đến trường xem số báo danh để biết vị trí ngồi và cửa vào. Từ nửa đêm hôm trước ngày thi, mỗi thí sinh vác một bộ lều chõng, cổ đeo ống quyển, dầu (để thắp đèn), nước, vai mang tráp đựng thức ăn, thức uống, đồ dùng trực sẵn ở cửa trường thi. Sau 3 hồi trống, các quan vào vị trí đã định, lại phòng (giám thị) xướng danh nhận quyển cho thí sinh vào trường. Thí sinh tìm chỗ chọn phần đất rồi tự đóng lều, dựng chõng, mài mực đợi đề thi. Khi trời sáng rõ thì đầu bài được phát, đến trưa họ nộp quyển vào nhà Thập đạo lấy dấu nhật trung và đến tối nộp lại quyển cho lại phòng đóng dấu của Hội đồng thi. Làm bài xong thí sinh ra ngoài trường thi bằng cửa trước.
Xếp hạng
Thi Hương gồm hai hạng:
- Qua được 3 kỳ đầu (hay còn gọi là ba trường) thì đỗ cấp tú tài (tức sinh đồ – tên dân gian là ông Đồ, ông Tú).
- Qua được cả 4 kỳ thì đỗ cấp cử nhân (tức hương cống – ông Cống, ông Cử)
Đỗ tú tài thì không được triều đình bổ dụng nhưng đối với trong làng, trong tổng thì địa vị đương sự thăng từ hạng thường dân lên hạng chức sắc, có chân trong hội đồng kỳ mục, được miễn sưu dịch, và khi có cỗ bàn trong đình thì được ngồi chiếu trên. Đỗ cử nhân thì ngoài việc được phép dự thi Hội, còn được bổ nhiệm làm quan trong những ngạch thuộc cửu phẩm, được vua ban áo mũ và làng xã phải phục dịch đón tiếp vinh quy.
Lệ vinh quy
Từ triều Lê Thánh Tông năm 1481 đã đặt ra lệ xướng danh và vinh quy cho các tân khoa hương cống. Tân khoa ra nhận áo, mũ, và giày vân hài của nhà vua ban rồi tên thì đem yết ở bảng bằng gỗ vẽ hình hổ. Sau đó họ lần lượt ra lễ tạ vua cùng các quan hàng tỉnh và quan trường. Các vị sinh đồ (tú tài) thì không có áo mũ, cũng không có xướng danh. Tên thì yết ở tấm bảng tre nhưng vẫn là một vinh dự lớn.
Phần lễ nghi xong thì các vị tân khoa sửa soạn về quê quán nhưng có sức về phủ, huyện, xã để sửa soạn đón rước gọi là đám rước “vinh quy bái tổ”. Sinh đồ thì hàng xã đón. Hương cống thì hàng tổng trở lên phải cung phụng linh đình, xem như một vinh dự chung của cả làng.[4]
Thi hương qua các triều đại
Nhà Nguyễn
Khi vua Nguyễn Thế Tổ thống nhất đất nước, tổ chức lại việc thi cử thì cũng cho mở khoa thi hương. Khoa thi đầu tiên thời nhà Nguyễn tổ chức năm Đinh mão 1807 nhưng chỉ có ở Nghệ An, Thanh Hóa và Bắc Thành. Từ Quảng Bình trở vào nam không có ai ứng thí. Mãi đến năm Quý dậu 1813 mới có khoa thi hương đầu tiên ở Huế và Gia Định.[5]
Khoa cử cáo chung
Sang thời Pháp thuộc, chính quyền Bảo hộ dần loại bỏ việc học chữ Nho. Ở Nam Kỳ ngay từ năm 1878 thì chữ Quốc ngữ đã thành văn tự chính thức. Sang thế kỷ 20 Bắc Kỳ mở khoa thi Hương cuối cùng năm 1915, còn khoa thi Hương cuối cùng ở Trung Kỳ là năm 1918. Kỳ thi Hội cuối cùng là vào năm 1919.[6] Triều đình Huế từ đó không dùng khoa cử làm cách tuyển chọn nhân sự nữa.[7]
Kỳ thi Hương năm Bính Ngọ triều Thành Thái 1906 có hơn sáu nghìn khóa sinh dự thí ở Nam Định. Đến năm Nhâm Tý triều Duy Tân 1912 thì chỉ còn 1.330 người đi thi, phản ảnh sự tàn lụi của Nho học ở Việt Nam, và theo đó khoa cử cũng chấm dứt.[7]
Trung Quốc
Thời kỳ Đường-Tống gọi là “hương cống”, “giải thí”. Đến thời Minh-Thanh cho tổ chức tại các tỉnh. Cứ mỗi chu kỳ 3 năm lại tổ chức một lần, vào tháng 8 âm lịch các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu nên còn gọi là “thu vi”, là chính khoa. Gặp khi tân quân (vua mới) lên ngôi, mừng thọ, thì có thể thêm một khoa thi nữa gọi là ân khoa. Đến khi thi, triều đình cử chánh phó chủ khảo quan để chủ trì kỳ thi của các sĩ tử, bao gồm thi Tứ Thư, Ngũ Kinh, hỏi về văn sách v.v. Tuy nhiên, nội dung của các kỳ thi này là không thống nhất giữa các thời kỳ. Nơi diễn ra thi Hương gọi là cống viện. Kỳ thi này diễn ra 3 lần (tam trường), mỗi lần 3 ngày.
Đối tượng dự thi
Thi Hương do chủ khảo quan chủ trì, tất cả các loại sinh viên, cống sinh, giám sinh đều được phép dự thi. Tuy nhiên, những hạng người sau không được dự thi, bao gồm các quan lại, nha đầu, nghệ nhân, người làm nghề ca kỹ, người cha mẹ mất chưa được 3 năm.
Xem thêm
Khoa bảng
Thi Hương Thi Hội Thi Đình Giải nguyên Hội nguyên Đình nguyên Hương cốngSinh đồ Thái học sinhPhó bảng Trạng nguyênBảng nhãnThám hoaHoàng giápĐồng tiến sĩ xuất thân
Thi Hội
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thi Hội là một khóa thi cử về Nho học do bộ Lễ của triều đình phong kiến tổ chức 3 năm một lần tại các trường trung ương để tuyển chọn người có tài, học rộng.
Từ đời Lê Thánh Tông thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi cử của Trung Quốc). Sau khi thí sinh đỗ kỳ thi Hương thì năm sau mới được dự thi kỳ thi Hội. Thi đỗ khóa thi Hội rồi mới được phép dự thi Đình. Những người đỗ thi Đình được bổ dụng quan chức trong triều đình.
Theo quy định từ năm 1434, thi Hội tương tự như thi Hương cũng có 4 kỳ.
- Kỳ I: kinh nghĩa, thư nghĩa;
- Kỳ II: chiếu, chế, biểu;
- Kỳ III: thơ phú;
- Kỳ IV: văn sách.
Khoa thi này được gọi là “Hội thi cử nhân” hoặc “Hội thi cống sĩ” (các cử nhân, cống sĩ, tức là người đã đỗ thi Hương ở các địa phương, tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.
Trước năm 1442 thí sinh đỗ cả 4 kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội, nhưng không có học vị gì. Nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị hương cống hoặc cử nhân. Chỉ sau khi thi Đình, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại đỗ và mới được công nhận là có học vị các loại tiến sĩ. Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh – tên dân gian là ông Nghè). Người đỗ đầu gọi là Hội Nguyên.
Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó Bảng (ông Phó Bảng).
Thi Đình
Thi Đình là một khóa thi cử về nho học cao cấp nhất do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó mà được vào làm quan chức trong triều chính. Sau khi thí sinh đỗ kỳ thi Hội thì mới được dự thi kỳ thi Đình. Đỗ đầu thi Đình gọi là đình nguyên hay điện nguyên. Tổ chức việc thi hương tại Việt Nam được bắt đầu từ thời nhà Lê sơ và tiếp nối qua các thời nhà Mạc, Lê Trung Hưng và nhà Nguyễn
Gọi là thi Đình vì thi trong điện của vua. Vua ra đề và chấm khảo thi.
Gồm 3 đẳng (tam giáp)
- Bậc 3: Đỗ tiến sĩ đệ tam giáp (đồng tiến sĩ xuất thân) – dân gian gọi là ông tiến sĩ
- Bậc 2: Đỗ tiến sĩ đệ nhị giáp (tiến sĩ xuất thân hay hoàng giáp) – ông hoàng
- Bậc 1: Đỗ tiến sĩ đệ nhất giáp (tiến sĩ cập đệ). Gồm ba thí sinh đỗ cao nhất (gọi là tam khôi): Đỗ hạng ba là thám hoa (ông thám), hạng nhì là bảng nhãn (ông bảng), đỗ đầu là trạng nguyên (ông trạng)[1]
- Bậc 3: Đỗ tiến sĩ đệ tam giáp (đồng tiến sĩ xuất thân) – dân gian gọi là ông tiến sĩ
- Bậc 2: Đỗ tiến sĩ đệ nhị giáp (tiến sĩ xuất thân hay hoàng giáp) – ông hoàng
- Bậc 1: Đỗ tiến sĩ đệ nhất giáp (tiến sĩ cập đệ). Gồm ba thí sinh đỗ cao nhất (gọi là tam khôi): Đỗ hạng ba là thám hoa (ông thám), hạng nhì là bảng nhãn (ông bảng), đỗ đầu là trạng nguyên (ông trạng)[1]